28
a) Cơ cấu vốn đầu tư FDI tại Việt Nam theo vùng lãnh thổ
Trong thời kỳ này thì vùng Đông Nam Bộ đã chiếm hơn nửa tổng số vốn đầu tư 54%.
Tiếp theo là Đồng bằng sông Hồng với 30%. Còn các vùng khác thì con số này là rất
thấp. Duyên hải Nam Trung Bộ là 8%. Đồng bằng Sông Cửu Long là 2%, Bắc Trung
Bộ (2%) và Đông Bắc (4%). Còn hai vùng Tây Nguyên, Tây Bắc con số này là 0%.
Qua đây ta thấy tỉ lệ vốn đầu tư vào các vùng không đồng đều nhau. Tập trung ở vùng
có các tỉnh thành phố phát triển. Còn các vùng khác thì cơ cấu vốn lẻ tẻ, ít ỏi. Đây
cũng là điều bất cập làm cho đất nước phát triển không đều, gây nên khoảng cách giàu
nghèo. Mặt khác ở từng vùng thì tỉ lệ vốn cũng khác nhau. Nếu hai thành phố lớn là
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư của
cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%. Thành phố Hồ
Chí Minh với số vốn đăng ký 9991,3 triệu USD (chiếm 28,3% tổng vốn đăng ký cả
nước. Số liệu tương ứng của các địa phương như sau: Hà Nội 7763,5 (22%); Đồng Nai
34390 (9,7%); Bà Rịa - Vũng Tàu 2515,9 (7,1%); Bình Dương và Bình Phước 1677,9
(4,8%); Hải Phòng 1507,7 (4,3%); Quảng Ngãi 133,0 (3,8%); Quảng Nam Đà Nẵng
1013,7 (2,9%)…
Với mong muốn thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế giữa các vùng nên chính phủ ta đã có chính sách khuyến khích, ưu đãi đối
với các dự án đầu tư vào "những vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa". Tuy vậy, vốn nước ngoài vẫn được đầu tư trực tiếp chủ yếu vào
một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế. Và vì
thế đầu tư nước ngoài theo vùng lãnh thổ để kết hợp hoạt động này với việc khai thác
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
29
tiềm năng trong nước, đạt kết quả chưa cao. Đây cũng là vấn đề cần điều chỉnh trong
thời gian tới trong lĩnh vực này.
b) ĐTTTNN vào Việt Nam phân theo ngành kinh tế
Đồ thị 2: Cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam theo ngành kinh tế
Nhìn vào đồ thị tính cả thời kỳ 1988-2001, các dự án đầu tư vào các ngành công
nghiệp chiếm tỉ trọng lớn cả về số dự án lẫn vốn đầu tư (38%), tiếp đó là các lĩnh vực
dịch vụ, khách sạn - du lịch, xây dựng… còn các ngành tài chính ngân hàng, văn hoá,
y tế, giáo dục, GTVT, bưu điện chiếm con số nhỏ. Ta nhận thấy cơ cấu vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, phù hợp hơn với yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với sự nghiệp CNH- HĐH. ở thời kỳ
đầu các dự án tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khách sạn văn phòng cho thuê… từ 1995,
1996 đến nay các dự án đã tập trung vào lĩnh vực sản xuất nhiều hơn. Theo số liệu
thống kê trên đồ thị ta nhận thấy rằng sự phù hợp tương đối của các chỉ số này với yêu
cầu về cơ cấu của một nền kinh tế hiện đại, CNH: Công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp. Việt Nam đi lên từ một nước nông nghiệp và nông nghiệp là một thế mạnh của
Việt Nam, tập trung hơn 75% số lao động. Và nông nghiệp của Việt Nam có rất nhiều
tiềm năng để khai thác. Sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH là thực hiện CNH,
HĐH ở nông thôn, nông nghiệp, để tạo ra việc làm, thu nhập cho một số đông lao động
cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể đến sản xuất và đời sống của đa số dân cư
Việt Nam.
3. Tình hình sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tiến độ thực hiện vốn đầu tư của các dự án.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
30
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2001-2002 Việt Nam và thế giới, tr50.
Đến hết năm 2001 tổng số vốn đã thực hiện bằng 51,72% của tổng số vốn đăng ký.
Trong điều kiện của Việt Nam kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các
nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị
trường phát triển chưa đầy đủ… thì tỷ lệ vốn thực hiện như vậy là không thấp. Đặc
biệt vào những năm (1999, 2000) số vốn thực hiện lớn hơn số vốn đăng ký (123,9%).
ở Việt Nam, số vốn thực hiện của từng năm chủ yếu là các dự án đã phê duyệt từ trước
đó vì khi phê duyệt các dự án chưa có đủ điều kiện để thực hiện ngay vì thế so sánh số
vốn thực hiện của từng năm so với số vốn đăng ký còn lại (tổng số vốn đăng ký trước
đó trừ đi số vốn thực hiện) thì tỉ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng thiếu ổn
định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu năm 1997 và sau đó giảm dần từ 1998 đến 1999,
năm 200, 2001 đã có biểu hiện của xu hướng tăng lên. Nếu xét trên tổng thể hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam thì tỷ trọng vốn nước ngoài đang
chiếm phần lớn (9%) trong tổng số vốn thực hiện. Và số vốn đang có xu hướng giảm
xuống kể từ năm 1996.
Khu chế xuất và khu công nghiệp là loại địa bàn tương đối hấp dẫn nhà đầu tư trong
nước cũng như ngoài nước. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là 2037,6 triệu USD.
Đầu tư nước ngoài ở một số lĩnh vực kinh tế được lựa chọn:
+ Lĩnh vực dầu khí: thu hút tập đoàn kinh tế lớn của thế giới tham gia đầu tư.
+ Lĩnh vực công nghiệp điện tử: là lĩnh vực các nhà đầu tư nước ngoài có mặt tương
đối sớm, vốn thực hiện chiếm tỉ lệ cao so với vốn đăng ký. Vốn đăng ký 615 triệu
USD, vốn thực hiện là 60%.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
31
+ Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy: thu hút được nhiều nhà đầu tư nổi tiếng như
Toyota, Honda, Suzuki… với số vốn thực hiện của các dự án đầu tư sản xuất ô tô là
376 triệu USD (bằng 43,12% vốn đăng ký).
+ Lĩnh vực viễn thông: tổng số vốn đăng ký là 2 tỷ USD.
+ Hoạt động kinh doanh khách sạn du lịch có 7585 triệu USD vốn đăng ký và đã có
33,26% (2553 triệu USD) vốn thực hiện.
+ Lĩnh vực công nghiệp hoá chất: tổng số vốn đăng ký là trên 2 tỷ USD, vốn thực hiện
đạt 682 triệu USD.
+ Lĩnh vực dệt may giày dép: vốn đăng ký là 2396 triệu USD, vốn thực hiện là 1079
triệu USD.
+ Lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp: Vốn đăng ký là 1,86 tỷ USD và vốn thực hiện là
852 triệu USD.
4. Tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đối với công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Thứ nhất: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một trong
những điều kiện kiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Thực tế cho thấy, từ khi thực hiện chính sách FDI cho đến nay, vốn đầu tư nước ngoài
thực hiện Việt Nam bình quân 1.111,75 triệu USD/năm; vốn đầu tư xây dựng cơ bản
của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân 16291 tỷ tỷ đồng/năm, thời kỳ 1991 -
1999.
Đối với một nền kinh tế như của nước ta, thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ
thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến, không chỉ về qui mô mà còn có
vai trò như "chất xúc tác - điều kiện" để việc đầu tư của ta đạt được hiệu quả nhất định.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
32
Nếu so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991 - 1999 thì vốn đầu tư
xây dựng cơ bản của các dự án FDI chiếm 26,51% và lượng vốn đầu tư này có xu
hướng tăng lên.
Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng, giúp Việt Nam phát triển
một nền kinh tế bền vững theo yêu cầu của công cuộc CNH - HĐH.
Hoạt động FDI còn là một trong những nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước,
điều này được chứng minh thông qua số tiền thực hiện nộp ngân sách nhà nước tăng
lên qua các năm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về định tính, sự hoạt động của đồng vốn có nguồn vốn từ FDI như là một trong những
động lực gây phản ứng dây chuyển làm thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong
nước.
Thứ hai: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo nên năng lực sản xuất
mới, ngành nghề mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới, làm cho
nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển của các thành phần
kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước (chỉ số phát triển của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 1997 là: 120,75% và chỉ số phát triển chung
của cả nước là 108,15%; năm 1998 là: 116, 88% và 105,8%. Tỷ trọng của khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP cũng có xu hướng tăng lên (năm 1997 là
9,08%; năm 1998 là 10,12%; 1999 là 13,3%).
Đối với ngành công nghiệp: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những
chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất
của toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này, đạt từ 28,9%
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
33
năm 1997 đa tăng lên 31,98% năm 1998 và 34,73% năm 1999. Trong ngành công
nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vón đầu tư nước ngoài đang có vị trí hàng đầu
với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Trong ngành công nghiệp chế biến,
tỷ trọng này chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng.
Đối với ngành công nghiệp: Tính đến nay, có 211 dự án FDI đang hoạt động trong
ngành với tổng số vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể
nâng cao năng lực sản xuất cho ngành, chuyển giao cho lĩnh vực nhiều giống cây,
giống con tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng
hoá sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng hoá. Vốn đầu
tư nước ngoài còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu
cầu của nền kinh tế CNH - HĐH. Nếu như trước đây đầu tư nước ngoài chỉ chủ yếu
tập trung vào chế biến gỗ, lâm sản thì những năm gần đây nhiều dự án đã hướng vào
các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường, trồng
rừng…
Vấn đề những công nghệ đang được sử dụng ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hiện còn những ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng nếu phân tích theo logic,
cùng với đánh giá thực tế của một số cơ quan chuyên môn thì thấy rằng: Các nhà đầu
tư nước ngoài bao giờ cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn là mục tiêu hàng
đầu. Tiếp theo là thiết bị công nghệ. Mặc dù chưa phải là hiện đại nhất của thế giới
nhưng phần lớn là hiện đại hơn những thiết bị đã cố trước đây của Việt Nam.
Một vấn đề cũng rất quan trọng là, nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ
biết sản xuất kinh doanh thụ động thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã thực sự trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi cản bản phương
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
34
thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng thích cực và
ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam phải
đương đầu với vấn đề xác định khả năng tồn tại hay phá sản. Để có thể tồn tại các
doanh nghiệp Việt Nam chỉ còn cách là thay đổi một cách canư bản từ công nghệ cho
đến phương thức sản xuất kinh doanh.
Thứ ba: Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một số lượng
lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành
cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực sản xuất cho người lao động.
Tính đến ngày 31/12/1999 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra
296.000 việc làm trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp. Như vậy, số lao động
làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước
ngoài chiếm khoangr 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà
nước.
Thu nhập bình quân của lượng lao động này là 70 USD/ tháng bằng khoảng 150% mức
thu nhập bình quân của lao động trong khu vực Nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối
với lao động Việt Nam do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao
động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao
động cao, kỷ luật nghiêm khắc, trình độ cao là yếu tố tạo nên người Việt Nam có ý
thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ tay nghề.
Về đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh: Trước khi bước vào cơ chế thị trường, chúng ta
chưa có nhiều nhà doanh nghiệp có khả năng tổ chức có hiệu quả trong môi trường
cạnh tranh, khi các dự án đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhà đầu tư nước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
35
ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi đồng thời áp dụng những chế độ quản
lý, tổ chức kinh doanh tiên tiến.
Đây chính là điều kiện tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao
trình độ. Mặt khác, các nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo các bộ quản lý
cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ nào đó để đáp ứng được các yêu cầu
trong các dự án. Như vậy dù muốn hay không thì các nhà đầu tư nước ngoài đã tham
gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế
Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phương thức đưa hàng hoá tại Việt Nam
thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất.
Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc thực hiện các dự án đã trở thành "cầu nối",
là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác với nhiều quốc
gia, tổ chức quốc tế, trung tâm kinh tế kỹ thuật công nghệ cao của thế giới.
Mặt khác, hoạt động của FDI đã giúp Việt Nam mở rộng thị phần ở nước ngoài. Đối
với những hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vô hình
chung đã biến các bạn hàng truyền thống của các nhà đầu tư nước ngoài tạivn thành
bạn hàng của Việt Nam. Nhờ có những lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên
tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp này, cao hơn khả năng xuất
khẩu của cả nước và hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước.
Tóm lại, hoạt động của FDI vừa qua đã gó phần chuyển biến nền kinh tế Việt Nam
theo hướng một nền kinh tế CNH - HĐH. Đối với Việt Nam như lực khởi động, như
một trong những đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH - HĐH. Một số dự
án FđI đ• góp phần xây dựng một số doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện khó khăn,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
36
sản xuất đình đốn có nguy cơ phá sản. Không những thế. Nó còn góp phần hình thành
nhiều ngành nghề sản xuất mới cũng như nhiều sản xuất mới.
5. Hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ và kỹ thuật
của nhiều ngành sản xuất để tạo điều kiện nâng cao tay nghề, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến, góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước,
ngoài ra khu vực này đã thu hút được một lượng lao động đáng kể, cả trực tiếp lẫn gián
tiếp, thu nhập của người lao động được tăng lên, mức sống được cải thiện. tuy nhiên
bên cạnh những kết quả đạt được đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có một số hạn chế
sau:
b. Cơ cấu vốn đầu tư nhìn chung còn bất hợp lý so với định hướng phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Thực tế hoạt động FDI trong những năm qua cho thấy vốn đầu tư
vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi
vốn ngắn như; Các ngành sản xuất chất tẩy rửa, ngành gia công may mặc, giày dép lắp
ráp ô tô, xe máy, điện tử, dân dụng, sắt thép, xi măng, khách sạn, văn phòng cho
thuê… Còn các dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, thuỷ sản, công ngghiệp
cơ khí và dịch vụ có giá trị lớn như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính,
ngân hàng lĩnh vực công nghệ cao chiếm tỷ lệ rất thấp cả về số lượng dự án và vốn đầu
tư.
- Một số dự án hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài dẫn đến tình trạng bị phá sản,
công nhana bị sa thải. Từ năm 1998 đến năm 2001 có xu hướng nhiều liên doanh đã
phải chuyển sang hình thức Công ty 100% vốn nước ngoài để cải thiện hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Một số liên doanh do vốn đầu tư của Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -