Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thế giới phi lý và nỗi âu lo, hy vọng trong tiếng cười hài kịch của N.Gogol pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.04 KB, 5 trang )

Thế giới phi lý và nỗi âu lo,
hy vọng trong tiếng cười hài
kịch của N. Gogol





Trong cơn hứng khởi Khlestakov tuyên bố: “Tôi biết mình lắm chứ. Tôi ở khắp nơi
khắp nơi! ”. Khlestakov mang trong mình đặc điểm phổ biến của hầu hết các nhân vật
trong Quan thanh tra – lòng mong muốn lẩn tránh con người đáng khinh của mình trong thực
tại và khát vọng thể hiện mình một cách bệnh hoạn bằng sự thoát ly vào thế giới ảo tưởng tầm
thường mang tính vật chất. Các nhân vật trong vở hài kịch cố gắng lấp đầy sự trống rỗng của
bản thân bằng một sự trống rỗng khác, ồn ã hơn, nhưng không kém phần vô nghĩa.
Cuộc sống hai mặt của các nhân vật trong Quan thanh tra được Gogol đặc biệt chú ý khi
sắp xếp hệ thống những lời chỉ dẫn vô cùng phong phú về lời nói và cử chỉ của các nhân vật trên
sân khấu thành hai tuyến song song, đồng thời: “nói một mình”, “nói sang bên”, “ngẫm nghĩ”,
“suy tư”, “đờ người ra, run rẩy toàn thân”, “rón rén”, “căng mắt lên” đối lại với “nói to”, “vội
vã nói”, “vừa nói vừa thở”, “làm vẻ mặt”, “múa tay trước trán”, “ôm đầu”, “vung tay” Phong
cách lời thoại của các nhân vật, đặc biệt là Thị trưởng, thay đổi liên tục tuỳ theo trạng thái tâm lý
và đối tượng người nghe. Nhưng những lúc nhân vật cao hứng anh ta dường như không nghe
thấy tất cả những người xung quanh và đối thoại trở thành độc thoại (Khlestakov, Thị trưởng).
Những mối quan tâm đến nhu cầu vật chất tủn mủn, vụn vặt làm cho số lượng những từ liên
quan đến cái ăn, cái mặc chiếm ưu thế trong lời thoại các nhân vật. Sự trống rỗng của cuộc sống
các nhân vật có lúc làm cho một số đối thoại trở nên phi lý đến cực điểm: “Khlestakov: Tôi hỏi
điều này khí không phải: Cô định đi đâu đấy ạ?/ Maria Antonovna: Thật, tôi không đi đâu
cả./ Khlestakov: Ờ, vì lẽ gì cô lại không đi đâu cả?/ Maria Antonovna: Tôi nghĩ không biết mẹ tôi
có ở đây không / Khlestakov: Không, tôi muốn biết vì lẽ gì cô lại không đi đâu cả kia mà?”.
Thế giới nhân vật trong Quan thanh tra là một thế giới nhộn nhạo như những bóng ma
vô hồn, lúc nhúc những “chuột cống”, “mõm lợn” dường như báo hiệu trước sự ra đời thế giới
của Kafka. Có thể coi Gogol là một trong những nhà văn đầu tiên phản ánh vào văn học


khuynh hướng “vật hoá”, “mờ hoá” nhân cách của thế giới con người. Nhiều nhân vật dù có
tên nhưng chỉ được gọi bằng vị trí xã hội (Thị trưởng, Chủ sự bưu vụ ), hoặc chẳng có tên (vợ
thợ nguội, vợ goá hạ sĩ quan ), hay được định danh chỉ như một đám người cùng chung một
tiếng nói (“đám nhà buôn”, “đám khách khứa”, “đám người cầu xin” ). Tên của những viên
cảnh sát trong vở kịch như mô phỏng hành động mang tính chức năng của họ: Svistunov (Thổi
còi), Pugovitsưn (Giật cúc), Derzhimorda (Giữ mõm).
Các nhân vật trong Quan thanh tra thường hay nhại lại nhau một cách phi lý. Chính vì
vậy mà một số yếu tố hề kịch được Gogol sử dụng một cách hữu hiệu: cặp đôi nhân vật
Dobchinsky – Bobchinski luôn nhại lại nhau như những nhân vật hề; cái hắt xì hơi của Thị
trưởng là cơ hội để những người bạn - kẻ thù của ông ta tung ra câu thành ngữ biến thái: “Quỉ
bắt mày đi!”, “Biến mẹ mày đi!”, đáp lại những câu nửa chúc nửa chửi ấy Thị trưởng tuyên bố:
“Xin chân thành cảm ơn, tôi cũng chúc quí vị như thế!”
Không gian thị trấn trong Quan thanh tra được chính các nhân vật ý thức như một nơi
“heo hút” như một vùng đất huyền thoại bị Chúa bỏ quên. Thị trưởng tuyên bố: “Từ nơi này,
dẫu có phi ngựa ba năm cũng chẳng tới được quốc gia nào”. Biểu tượng của không gian ấy là
phòng trọ “nhớp nháp”, “tăm tối”, mang hơi hướng “mục ruỗng”, nơi trú ngụ của loài “gặm
nhấm”, “ăn bẩn”, gần với không gian “Hamlet” của Shakespeare: “Thị trưởng: Thật chẳng ra
thế nào cả, thậm chí trong phòng này tăm tối quá phải không ạ?/ Khlestakov: Đúng, tối tăm quá
thể. Chủ quán theo thông lệ không cho thắp nến”.
Các nhân vật trong Quan thanh tra đặc biệt hãi sợ những cánh cửa “đột ngột mở toang”,
sợ ai đó “ập vào” và cố gắng trốn chạy bằng ảo tưởng vào những “khung cửa sổ” (“cúi nhìn
qua cửa sổ”, “chạy ra cửa sổ”, “lại bên cửa sổ” ).
Cái phi lý của sự tồn tại bản thể có lúc được Gogol khái quát lên bằng những hình tượng
nghịch dị mang sức ám gợi, như mụ vợ goá hạ sĩ quan “tự đánh mình”, nhà thờ chưa từng xây
đã coi như “cháy tiệt rồi”, những công trình xây dựng “càng ngổn ngang đổ vỡ bao nhiêu càng
chứng tỏ hành động tích cực của lãnh đạo thành phố bấy nhiêu”
Ở hồi V của vở kịch, khi Khlestakov đã cao chạy xa bay, đem theo đồ hiến tế của cả thị
trấn, bức thư của Khlestakov bị Chủ sự bưu vụ phát hiện, Thị trưởng vỡ mộng một cách cay
đắng: “Tôi chẳng thấy gì nữa cả. Xung quanh, tôi không thấy mặt người, chỉ toàn thấy mõm
lợn!”. Chính vào lúc ấy Thị trưởng ném vào mặt tất cả những nhân vật khác (và cả khán giả)

câu nói như sự tự ý thức của cả cái thế giới tồn tại phi lý đến vô nghĩa trong Quan thanh tra:
“Các vị cười gì vậy? Các vị đang cười chính mình đấy!” Câu nói này cùng với lời đề từ “Đừng
đổ lỗi cho gương, nếu mặt mình méo mó” được Gogol đưa vào văn bản năm 1842 để nhấn
mạnh ý nghĩa khái quát của vở kịch.
Trong độc thoại vỡ mộng của Thị trưởng, nỗi lo âu về việc báo ứng lại nổi lên một cách
khẩn thiết. Mạch sự kiện của vở kịch dường như lại quay về điểm xuất phát với nỗi lo âu về
“Ngày phán xử cuối cùng”. Nỗi lo âu ấy chuyển thành nỗi kinh hoàng khi “Hiến binh” xuất
hiện và thông báo thanh tra thật đến. “Hiến binh” và “quan thanh tra” thật không có trong danh
sách các nhân vật của vở kịch, mà xuất hiện như một sự kỳ ảo
(15)
- hệ quả nỗi lo âu khủng khiếp
của các nhân vật, nó làm các nhân vật hoá đá trong “Màn câm” kết thúc vở kịch – màn kịch hi
hữu trong lịch sử sân khấu thế giới.
Môtip “nhận nhầm” quan thanh tra được triển khai như sự tráo đổi “giả mà thật”, “thật
mà ảo” và kết thúc bằng màn “nhận biết” chân giá trị của “thế giới bóng ma”.
Đoạn kết của các hồi kịch trong Quan thanh tra là những cái kết dành riêng cho thế giới
bóng tối: hồi I kết thúc bằng cuộc cãi nhau giữa vợ và con gái Thị trưởng - “Màn hạ xuống và
che đi cả hai người đứng bên cửa sổ”; hồi II kết thúc bằng tiếng chửi đổng của Thị trưởng: “Ma
quỉ biết thế này là thế nào!”; hồi III kết thúc bằng cảnh Thị trưởng dặn dò viên cảnh sát “thẳng
tay” với đám người đến gặp quan thanh tra để kiện cáo, dặn rồi “rón rén đi ra” như một bóng
ma; hồi IV kết thúc bằng những tiếng vọng hậu trường từ biệt Khlestakov hòa với “tiếng lục
lạc” của cỗ xe đưa Khlestakov biến mất vào hư vô; “Màn câm” kết thúc toàn bộ vở kịch ghi lại
nỗi kinh hoàng của thế giới tội lỗi vào khoảnh khắc báo ứng. Yếu tố kỳ ảo mang sắc thái tượng
trưng được Gogol sử dụng để nhấn mạnh cơn mê sảng đầy lo âu của thực tại và có ý nghĩa
cảnh báo.
*
Trong màn kịch Tản mát ra về sau buổi công diễn hài kịch mới (1842), Gogol tuyên bố:
trong Quan thanh tra có một nhân vật chính diện, “nhân vật trung thực và cao thượng đó là
tiếng cười” [V,169]. Tiếng cười hài kịch của Gogol không chỉ có mục đích “sửa chữa phong
hoá”, phê phán xã hội, hay những thói xấu - hiện tượng xã hội như trong hài kịch của Molière,

tiếng cười hài kịch của Gogol còn bắt khán giả nhìn vào con người bên trong của chính mình,
đau nỗi đau về sự tồn tại phi lý của bản thể, cảnh báo khán giả về sự tồn tại của một cuộc sống
khác với cuộc sống trống rỗng hiện tại. Ước vọng Khai sáng kết hợp với cảm quan nghiệt ngã
về thực tại đã làm nên kiệt tác Quan thanh tra. Ngay từ năm 1846, nhà văn I.Turghenev đã
nhận định rằng Quan thanh tra của Gogol “đã chỉ ra con đường mà văn học kịch của chúng ta
sẽ đi theo dòng thời gian”
(16)
. Quan thanh tra của Gogol trực tiếp soi đường cho những kiệt tác
kịch tâm lý xã hội của A. Ostrovski, báo hiệu trước cho sự ra đời của kịch A. Chekhov và Kịch
phi lý thế kỷ XX.
Trong thư gửi Puskin ngày 25/5/1836, Gogol tuyên bố: “Bất cứ ai cũng phải có lúc, nếu
không nói là nhiều lúc, đã và đang trở thành Khlestakov, nhưng tất nhiên, không ai muốn thú
nhận điều đó Tóm lại, hiếm có ai không phải có lúc trở thành Khlestakov dù chỉ một lần
trong đời” [IV,101]. Nếu câu nói của Gogol còn đúng trong thời đại của chúng ta, có nghĩa
là Quan thanh tra vẫn tiếp tục sống trong lòng độc giả, khán giả. Và tiếng cười hài kịch của
Gogol vẫn còn có ý nghĩa

×