Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tiềm năng Phát triển nông nghiệp ở Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.7 KB, 8 trang )

Tiềm năng Phát triển nông
nghiệp ở Việt Nam


Lịch sử phát triển nông nghiệp Việt Nam đã để lại cho hiện tại và
tương lai những bài học giá trị. Thời Pháp thuộc hàng triệu người đã
chết đói, nhiều triệu người khác thiếu ăn. Nhưng giờ đây, Việt Nam
đã vươn lên đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, nhờ có những
chủ trương, cơ chế đúng đắn.

Trong thế kỷ 20 Việt Nam đã trải qua ba cuộc chiến tranh và hai cuộc
khủng hoảng kinh tế lớn (1930 và 1985). Thế mà dân số nước ta
trong thời gian này vẫn tăng hơn sáu lần với suất tăng trưởng hơn
2% năm, trong cả suốt thế kỷ 19 dân số chỉ tăng chưa đến ba lần với
suất tăng trưởng dưới 1%.

Đến 1990 tốc độ tăng dân số vẫn còn cao hơn tăng lương thực,
nhưng chỉ trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, sản lượng lương
thực và thóc gạo đã vượt lên và trong cả thế kỷ đã tăng gần tám lần.
Nếu sản lượng thóc trên đầu người đầu thế kỷ là hơn 300 kg, thì cuối
thế kỷ đã tăng lên hơn 400 kg.

Nông nghiệp vào đầu thế kỷ chủ yếu là nền nông nghiệp cổ truyền,
dựa trên nền kinh tế gia đình nông dân và cộng đồng làng xã. Nghề
trồng lúa chủ yếu dựa vào nước trời và đầu tư lao động, chưa có cải
tiến kỹ thuật đáng kể. Năng suất lúa khoảng 12 tạ/ha, sản lượng vừa
đủ ăn một cách khó khăn. Sản lượng tăng chủ yếu do khai phá thêm
đất đai. Ở Bắc kỳ từ 1925 đến 1926 đã có 35 lần vỡ đê. Chính quyền
Pháp đã bắt đầu xây dựng một số công trình tưới tự chảy. Ở đồng
bằng sông Cửu Long đất nhiều và ít dân, diện tích trồng lúa tăng
nhanh nhờ việc đào kênh, khiến dư thừa thóc gạo để xuất khẩu.



Sở hữu ruộng đất không đồng đều, ở miền bắc không có nhiều địa
chủ lớn nhưng 50 % nông dân không có ruộng đất. Ở miền nam
ruộng đất tập trung vào tay các điền chủ lớn và nông dân không có
ruộng chiếm đến 2/3 nông dân.

Trong những năm 30, nhà địa lý Pháp Pierre Gourou (1936) viết
cuốn sách "Những người nông dân đồng bằng Bắc Bộ" đã mô tả hệ
thống nông nghiệp của một vùng có mật độ dân số cao nhất thế giới.
Thời bấy giờ dân số nông thôn vùng đồng bằng này là 6,5 triệu
người với mật độ là 430 người/km2 . Tác giả dự báo với suất tăng
dân số là từ 1,0 đến 1,3 % năm, dân số vùng này sẽ đạt 13 triệu
người vào các năm 1984-2001.

Thực tế dân số vùng này đã tăng đến 17 triệu vào năm 2000. Gourou
đã nói: " Hình như châu thổ này hiện nay không nuôi đủ 430 người/
km2, không thể nuôi được một dân số gấp đôi" (trang 197). Nhưng
thực tế nông dân nơi đây đã tìm được cách không những nuôi được
một dân số tăng hơn gấp đôi, mà còn dư thừa để tích luỹ và xuất
khẩu.

Sau năm 1930, tốc độ tăng dân số đã tăng lên 2,2% năm, chịu tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và các cuộc chiến liên
tục, khiến nông nghiệp nước ta gặp nhiều khó khăn trong sự phát
triển. Sản lượng thóc bắt đầu giảm dần và đến 1945 hai triệu người
đã chết đói.

Sau Cách mạng Tháng Tám, chính phủ cách mạng đã quyết định giảm
25% địa tô cho nông dân, và năm 1948 tịch thu 250.000 ha ruộng
của địa chủ Pháp và người hợp tác với Pháp để chia cho người không

có đất. Năm 1953, tiến hành cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng của
địa chủ để chia cho nông dân. Nông dân đã phấn khởi sản xuất, sản
lượng lương thực lại tăng nhanh.

Tiếp đó sau năm 1960, việc tập thể hóa nông nghiệp và cuộc kháng
chiến chống xâm lược Mỹ đã làm cho nông nghiệp giảm sút. Sau
chiến tranh, nông nghiệp đã phục hồi một cách khó khăn, các nhược
điểm của chế độ kế hoạch hóa tập trung và nông nghiệp tập thể dần
dần lộ ra. Ở miền bắc mặc dù phần đất của hộ nông dân chỉ chiếm có
5-10 % của toàn bộ ruộng đất nhưng thu nhập từ kinh tế hộ đã vượt
quá 70 %. Việc tập thể hóa ở đồng bằng sông Cửu Long không thành
công. Nông dân ở nhiều nơi thực hiện việc khoán sản lượng cho hộ
nông dân đã chứng minh ưu thế của chế độ này. Từ năm 1980 chế độ
khoán này được chỉ thị 100 của Ban Bí thư công nhận tạo đà phát
triển mới cho nông nghiệp. Quá trình cải cách kinh tế đã bắt đầu đưa
nền kinh tế trở thành kinh tế thị trường và đưa nông nghiệp về với
kinh tế gia đình vào năm 1988.

Cuộc cải cách này đã đưa đến một kết quả bất ngờ. Ngay năm 1989,
Việt Nam lại bắt đầu xuất khẩu gạo trở lại và đã trở thành nước xuất
khẩu gạo thứ hai trên thế giới. Việc quan tâm đến lợi ích của nông
dân đã làm cho nông nghiệp phát triển một cách toàn diện. Các năm
gần đây nông nghiệp đã tăng 4,3%/năm. Sản lượng lúa của đồng
bằng sông Cửu Long tăng nhanh nhờ việc đầu tư phát triển thủy lợi.
Ngoại tệ do xuất khẩu gạo cho phép nhập nhiều phân bón. Các tiến
bộ kỹ thuật từ hệ thống nghiên cứu khoa học được người nông dân
tiếp thu nhanh. Các cây trồng khác cũng đã phát triển đáng kể đưa
Việt Nam vào loại xuất khẩu hàng đầu của thế giới như cà-phê, hạt
điều hay có triển vọng như hồ tiêu, chè, cao-su Chăn nuôi cũng phát
triển nhanh hơn dân số nhưng chưa như mong muốn vì tốc độ còn

chậm hơn trồng trọt. Nghề nuôi thủy sản và đánh bắt thủy sản cũng
phát triển rất mạnh.

Việc phát triển nông nghiệp trong tương lai đang đứng trước những
thách thức lớn cần phải tìm cách khắc phục.

Sự tăng trưởng nông nghiệp liên quan với việc phát triển một nền
nông nghiệp hàng hóa thực sự và với sự chinh phục các thị trường
mới. Nông nghiệp hàng hóa đã có ở miền nam từ lâu với hướng xuất
khẩu. Ở miền bắc trước đây xuất khẩu sang các nước xã hội chủ
nghĩa, nay thị trường này không còn nữa, chưa tìm được thị trường
mới.

Các sản phẩm còn kém về chất lượng. Đặc điểm này làm cho hàng
hóa khó đi vào thị trường các nước đã phát triển. Cải tiến chất lượng
và tiếp cận thị trường là các mục tiêu thích hợp với sản xuất gia đình,
nhưng phải có hỗ trợ và chính sách thích hợp.

Sau đổi mới, các sự chuyển đổi cơ cấu quan trọng của nền kinh tế đã
xảy ra: Tỷ trọng nông nghiệp trong sản phẩm trong nước giảm
nhường cho công nghiệp và dịch vụ. Lao động nông nghiệp cũng
giảm về tương đối nhưng vẫn tiếp tục tăng về tuyệt đối. Việc chuyển
đổi cơ cấu ở nông thôn rất hạn chế, sự đa dạng hóa nông nghiệp, sự
phát triển chế biến nông sản, các hoạt động phi nông nghiệp, được
thực hiện rất chậm. Lao động nông nghiệp đang tăng lên ở nông
thôn, tạo nên tình trạng thiếu việc làm, làm cản trở việc tăng năng
suất lao động và tăng được thu nhập.

Việc thỏa mãn nhu cầu thực phẩm chỉ là giai đoạn đầu, rất cần thiết
cho sự phát triển. Nhưng để thúc đẩy sự tăng trưởng, chuyển đổi cơ

cấu kinh tế và phát triển bền vững, nhưng còn thúc đẩy được sự phát
triển của toàn xã hội, việc chuyển sang sản xuất hàng hóa là rất cần
thiết.

Một chiến lược phát triển nông nghiệp dựa vào xuất khẩu nông sản
thô không thúc đẩy được sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cũng như
tăng trưởng nông nghiệp bền vững vì nó không dẫn đến sự đa dạng
hóa cũng như công nghiệp chế biến thực phẩm hay công nghiệp
nông thôn. Việc giá cả nông sản thay đổi trên thị trường thế giới là
cản trở chính cho hướng phát triển nông nghiệp này. Trái lại việc
phát triển nông nghiệp để phục vụ thị trường trong nước, phục vụ
nhu cầu của công nghiệp hóa lại thúc đẩy được chuyển đổi cơ cấu
kinh tế.

Hiện nay dân số Việt Nam là 80 triệu người, diện tích đất nông
nghiệp là 9,4 triệu ha, số hộ nông dân là 13,5 triệu trung bình mỗi hộ
chỉ có 0,7 ha. Nếu không giảm được lao động nông nghiệp thì nông
sản thặng dư khó mà tăng thêm được.

Hộ nông dân hiện nay hoạt động trong một môi trường kinh tế và xã
hội không được thuận lợi. Nhà nước đã rút lui khỏi nhiều hoạt động
ở nông thôn lúc đã hủy bỏ chế độ bao cấp, đồng thời nhiều xí nghiệp
quốc doanh và nông trường quốc doanh đã thôi hoạt động. Kinh tế
hàng hóa phát triển một cách rụt rè vì thiếu các cơ sở hạ tầng và
khung pháp lý thích hợp. Các hoạt động hỗ trợ công cộng đối với hộ
nông dân rất hạn chế và nhiều nơi không có. Các HTX cũ phải chuyển
đổi thành các HTX dịch vụ không thực hiện được vì gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt là thiếu vốn và còn các món nợ chưa thanh toán được.
Nông thôn đang ở trong tình trạng thiếu các thể chế thích hợp.


Thể chế tạo ra thị trường có hiệu quả. Thị trường hiệu quả là các thể
chế có chi phí trao đổi thấp và tạo ra lợi ích kinh tế để các tác nhân
cạnh tranh với nhau qua giá và chất lượng. Trong quá trình phát
triển của hộ nông dân, lúc hộ đang còn ở giai đoạn tự cấp thì nông
dân thường tham gia vào thị trường để trao đổi các vật chất tiêu
dùng. Lúc bắt đầu phát triển kinh tế hàng hóa, hộ nông dân thường
phải đa dạng hóa sản xuất trong đó có phát triển các hoạt động phi
nông nghiệp bao gồm cả việc buôn bán để tăng thêm việc làm và thu
nhập. Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa, xu hướng chung
là nông dân từ bỏ dần hoạt động buôn bán để chỉ tập trung vào sản
xuất. Trong quá trình này người nông dân mất dần quyền mặc cả.
Nông dân thường phải chịu sự áp đặt giá cả của khách hàng. Thế lực
chính trị của nông dân ngày càng bị giảm nên họ mất thế lực trong
việc mặc cả giá. Phải phát triển hợp tác xã tiêu thụ nông sản để giúp
nông dân tham gia thị trường như các công ty kinh doanh chế biến
và buôn bán. Chế độ nông nghiệp hợp đồng cần khung pháp lý để
bảo đảm việc thực hiện hợp đồng.

Cần phát triển các hình thức tổ chức nông dân đa dạng. Tổ chức
nông dân cần phải bắt đầu từ thấp đến cao, thực hiện việc học tập
qua việc làm. Cần phải đào tạo cán bộ tổ chức nông dân. Quá trình
xây dựng các thể chế mới cần được thực hiện đi đôi với sự phát triển
dân chủ ở cơ sở.

×