Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Giáo trình - Kinh doan nông nghiệp chuyên sâu - chương 5 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.14 KB, 39 trang )


56

CHƯƠNG 5: THUẾ
1. Khái Niệm Thuế, Bản Chất Thuế, Các Hình Thức Của Thuế
1.1 . Khái niệm
Thuế ra đời với những đặc trưng cơ bản như đã trình bày ở phần trên. Nhưng
thuế là gì? Học thuyết về thuế là một bộ phận cấu thành quan trọng của khoa học về tài
chính. Học thuyết này nghiên cứu về các quan hệ sản xuất trong sự tác động hỗ tương
với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Sự đa dạng của quan hệ sản xuất - đã
làm cho một số quan hệ phân phối tách ra thành các quan hệ tài chính và từ đó hình
thành nên những mối quan hệ phân phối mang hình thức thuế có tính độc lập tương
đối.
Mặc dù còn tồn tại một số bất đồng, song hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất
rằng: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân, được Nhà
nước qui định thông qua hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu theo
chức năng của Nhà nước.
Ngoài ra còn có một khái niệm thuế được OECD đưa ra: “Thuật ngữ thuế được
giới hạn trong khuôn khổ các khoản thanh toán có tính chất cưỡng chế, không có tính
chất bồi hoàn lại cho chính phủ”.
1.2 . Bản chất của thuế:
Từ nguồn gốc ra đời và khái niệm của thuế, rõ ràng thuế có bản chất kinh tế -
chính trị - xã hội rất sâu sắc.
Bản chất kinh tế của thuế thể hiện trước hết thuế là một phần thu nhập của xã
hội được tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Kinh tế là cơ sở của
thuế, thuế gắn chặt chẽ với sản xuất, kinh doanh và kiểm soát thu nhập của mọi tổ chức
và cá nhân để động viên và điều hòa thu nhập, điều tiết kinh tế (điều tiết sản xuất và
tiêu dùng). Nguồn thu từ thuế cho ngân sách Nhà nước chhỉ có thể tăng nhiều và nhanh
trên cơ sở nền kinh tế được phát triển và đạt hiệu quả cao. Ngược lại, qua thu thuế phải
góp phần kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, thúc đẩy thực hành tiết kiệm về
mọi mặt trong sản xuất và tiêu dùng một cách hợp lý để tạo nguồn thu thuế ngày càng


lớn hơn. Chính vì vậy nếu Nhà nước tăng mức động viên thuế quá cao chỉ nhằm mục
đích đơn thuần tăng thu ngân sách để đáp ứng yêu cầu chi tiêu của Nhà nước mà bỏ
qua yêu cầu bảo đảm sự tăng trưởng về kinh tế thì thường là gặp thất bại, dễ dẫn đến
hậu quả xấu về nhiều mặt.
Tính chất thứ hai là tính cưỡng chế của thuế. Nó trở thành một phạm trù độc đáo và có
nét riêng. Tính cưỡng chế được thể hiện thông qua các điều khoản pháp luật. Thuế
không thể xây dựng trên và dung hòa với tư tưởng tự nguyện; khoản thuế thu được
không thể trông chờ vào thiện chí hay nhiệt tình của dân chúng đối với Nhà nước. Thuế
thể hiện ý chí toàn dân chứ không riêng ai cả.

57

Đặc tính thứ ba của thuế là không có đối giá trực tiếp. Nộp thuế cho Nhà nước
không giống chi tiền mua một sản phẩm hay dịch vụ nào đó để thỏa mãn nhu cầu tiêu
dùng riêng tư. Nộp thuế là một nghĩa vụ không thể thoái thác và khối lượng các lợi ích
mà người nộp thuế nhận được từ Nhà nước không liên quan gì đến khối lượng thuế đã
chi trả, thì việc trả tiền để nhận được một món hàng hoàn toàn mang tính chất tự
nguyện và thường có sự tương xứng về mặt giá trị. Sự khác biệt giữa thuế và giá cả của
hàng hóa - theo Ricahrd Goode và Luc de Wulf, hai chuyên gia của Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) - thì “Những khác biệt của thuế và giá rất quan trọng và chúng khác biệt đến độ
thuế thường được xem như là nặng nề hơn là giá cho dù người nộp thuế có tán thành
các chi tiêu của Nhà nước, anh ta có thể không nhận thức được mối quan hệ trực tiếp
nào giữa số lượng thuế đã nộp và lợi ích cá nhân nhận được từ các hoạt động chung
của Nhà nước. Mặt khác, các người tiêu dùng tuy có phàn nàn về giá cả tăng cao nhưng
lại nhận thức được một cái gì đó mình mong muốn. Nhưng cũng cần lưu ý là mặc dù
không đối giá trực tiếp nhưng mọi khoản thuế dân chúng đã nộp sẽ quay lại với họ
bằng nhiều con đường khác nhau thông qua chi tiêu từ ngân sách Nhà nước.
Đặc tính thứ tư của thuế là dùng vào chi tiêu công cộng. Đặc tính này giảm nhẹ
ý niệm cưỡng bách của thuế. Ngày nay, quyền lực công cộng đã thuộc về toàn thể dân
chúng, bộ máy Nhà nước do dân chúng điều khiển, còn Nhà nước dân chủ theo nghĩa

nào và ở mức độ nào, thì ở đây không bàn đến, nên việc nộp thuế và sử dụng tiền thu
từ thuế cũng do dân chúng quyết định. Ngoài một phần cung cấp cho quản lý hành
chánh, đại bộ phận thuế thu được chuyển giao lại cho người dân khi Nhà nước chi ngân
sách cho văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, cho các
chương trình nghiên cứu khoa học, chống ô nhiễm môi truờng, chống tệ nạn xã hội.
Đặc tính thứ năm của thuế là vĩnh viễn. Nộp thuế cho Nhà nước không giống cho Nhà
nước vay, nên không thể đòi lợi tức và vốn đáo hạn. Chúng ta biết rằng thuế dùng tài
trợ công chi, mà phần lớn công chi là những khoản cấp phát, cho không. Trên ý nghĩa
đó, đóng thuế cho chính phủ là san sẻ một phần gánh nặng công chi.
Xét về bản chất, thuế là một hình thức tái phân phối thu nhập xã hội do các
doanh nghiệp và dân chúng sáng tạo, hình thành nên ngân sách nhà nước, nhằm tài trợ
các nhu cầu chi tiêu công cộng. Xét về hiện tượng, thuế là quá trình chuyển dịch một
chiều thu nhập xã hội từ khu vực tư vào khu vực công cộng. Như vậy nộp thuế thực
chất là quá trình chuyển dịch chi tiêu tư thành chi tiêu vì lợi ích chung.
Khu vực tư bao gồm những hoạt động của các pháp nhân và thể nhân không
thuộc quyền sở hữu của chính phủ. Hoạt động của khu vực này trước hết vì lợi ích của
chính nó và dựa trên cơ chế thị trường. Khu vực tư hoàn toàn không thể cung cấp hoặc
cung cấp kém hiệu quả những mặt hàng có tính không loại trừ hoặc không cạnh tranh
trong tiêu dùng. Đấy là thất bại của hệ thống thị trường tư.
Khu vực công bao gồm những hoạt động của các cơ quan chính phủ, chính quyền địa
phương, các đoàn thể xã hội và các doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động của khu vực

58

công nhằm tạo ra các hàng hóa dịch vụ công cộng và được ví như nỗ lực của chính
quyền các cấp trong việc sửa chữa những thất bại của thị trường, tức là trang bị cho
dân chúng những điều kiện tối thiểu khi bước vào đời sống kinh tế-xã hội mà hệ thống
thị trường tư không làm được.
Tái phân phối thu nhập xảy ra khi một tư nhân đóng một khoản tiền thuế cho
nhà nước và nhận lại không tương xứng “lợi ích” từ công chi. Nếu tư nhân đó nhận

được “lợi ích” từ công chi tương xứng số tiền thuế anh ta đã nộp thì không có sự tái
phân phối. Tái phân phối thu nhập xã hội gồm: tái phân phối theo chiều dọc và tái phân
phối theo chiều ngang. Tái phân phối theo chiều dọc nhằm san sẻ thu nhập của các
doanh nghiệp và cá nhân giàu; tái phân phối ngang nhằm điều hòa thu nhập giữa các
doanh nghiệp và cá nhân thuộc các ngành, lĩnh vực hoặc các giới khác nhau. Trên thực
tế, những khác biệt giữa hai loại tái phân phối nói trên rất mờ nhạt.
Tóm lại, đánh thuế là một đặc quyền chỉ thuộc về Nhà nước và thể hiện sức
mạnh của Nhà nước trong đời sống xã hội. Nhà nước dùng thuế tái phân phối thu nhập
xã hội và điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Trong xã hội dân chủ, mặc dù không nhận đối giá
trực tiếp từ số tiền thuế nhưng dân chúng cũng nhận được một cách gián tiếp thông qua
lợi ích từ công chi. Ở đây có điểm đáng nói, hành vi nộp thuế của người dân mang tính
cụ thể, cá nhân và trực tiếp, còn sự thụ hưởng lợi ích từ chi tiêu của chính phủ mang
tính trừu tượng công cộng và gián tiếp. Do đó, ngoài việc hành thu thuế thật tế nhị mà
minh bạch, chính phủ cần phải công bố rõ ràng chương trình hành động của mình và
tăng cường giáo dục ý thức công dân về nghĩa vụ nộp thuế ngay từ bậc tiểu học. Như
vậy, dân chúng mới ý thức được sự cần thiết của thuế, mới xem nộp thuế là một việc
làm tự nhiên và cần thiết cho cuộc sống cộng đồng.
1.3 . Các hình thức thuế (phân loại thuế):
Thuế ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước. Thời kỳ đầu khi hàng hóa chưa
phát triển, thuế thường được thu bằng hiện vật. Chế độ thu bằng hiện vật có mặt giản
tiện cho người nộp thuế, làm ra thứ gì nộp thứ ấy; và Nhà nước sử dụng ngay số thuế
bằng hiện vật ấy để chi dùng vào những nhu cầu cần thiết, thích hợp. Nhưng thu thuế
bằng hiện vật có mặt bất lợi cho việc thu nộp, bảo quản, không linh hoạt trong cả việc
thu thuế và sử dụng số thuế thu được.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội, kinh
tế hàng hóa - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế được thu bằng tiền là chủ yếu. Thuế thu
bằng tiền, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và ngày càng
phát triển có tính hệ thống, các thứ thuế khác nhau lần lượt ra đời làm cho thuế ngày
càng đa dạng, phong phú linh hoạt.
Sự phát triển của các hình thức thuế trong lịch sử có thể giải thích phần lớn bởi

lý do quản lý. Do đánh thuế vào hàng nhập khẩu dễ dàng hơn là hàng hóa trong nội địa
nên thuế nhập khẩu là một trong những loại thuế xuất hiện sớm nhất. Tương tự thuế

59

doanh thu là một loại thuế đơn giản đánh trên tổng giá trị hàng hóa ra đời rất lâu trước
thuế GTGT. Thuế đánh vào đầu người và thuế đánh vào bất động sản cũng tương đối
dễ dàng thực thi nên đây là hai loại thuế trực thu đầu tiên được sử dụng.
Phân theo góc độ người nộp thuế thì có thể chia làm hai loại. Thuế trực thu và
thuế gián thu. Bản chất kinh tế của thuế trực thu là người nộp thuế đồng thời là người
chịu thuế. Căn cứ mức thuế qui định trong luật thuế, người nộp thuế tự tính và trích
một phần thu nhập của mình trực tiếp nộp cho Nhà nước, tức là thuế thu trực tiếp vào
thu nhập của người nộp thuế. Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu
nhập của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập cho nên đảm bảo được tính công bằng xã
hội: người có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, người có thu nhập vừa thì phải nộp
ít hơn, người không có thu nhập thì không phải nộp thuế. Thuế trực thu còn cho phép
tính đến những yếu tố có tính độc lập với thu nhập của người nộp thuế như: hoàn cảnh
bản thân; tình trạng hôn nhân; hoàn cảnh gia đình . . . Nhưng thuế trực thu cũng có
những mặt bất lợi là: việc tính toán phức tạp hơn, dễ dẫn đến tình trạng tính toán đúng
thì nộp thuế đúng, tính toán không đúng thì nộp thuế không đúng và thường là phải xác
định rõ thu nhập thì mới thu được thuế cho nên thường rất chậm. Nhiều trường hợp
phải đến kỳ quyết toán mới thu được đủ thuế, có trường hợp thu thiếu thì phải nộp
thêm, thu thừa thì phải thoái trả. Một trở ngại khác là thuế thu trực diện vào thu nhập
của tổ chức, cá nhân nên về tâm lý là dễ bị phản ứng. Mặt khác nếu chỉ thu thuế trực
thu thì diện quản lý thu thuế sẽ rất rộng. Tốn nhiều công sức mà hiệu quả thấp. Chính
vì vậy, để động viên vào tất cả mọi người trong xã hội, người ta sử dụng thuế gián thu
cùng với thuế trực thu hợp thành hệ thống thuế thống nhất, trong đó các loại thuế vừa
thực hiện nhiệm vụ chính của mình, vừa hỗ trợ nhau để phát huy tác dụng đồng bộ của
cả hệ thống thuế.
Thuế gián thu thường là thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tiêu dùng,

thuế nhập khẩu… Bản chất kinh tế của thuế gián thu là người nộp thuế có thể chuyển
dịch số thuế phải nộp sang cho người mua hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bằng cách cộng
gộp số thuế đó vào giá bán hàng hóa, dịch vụ. Do đó người nộp thuế không phải là
người chịu thuế mà người chịu thuế chính là người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Thuế
gián thu bảo đảm được sự lựa chọn của người chịu thuế đối với các loại hàng hóa, dịch
vụ mà họ quyết định mua; bảo đảm được tính tự nguyện chịu thuế. Người sản xuất kinh
doanh khi bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ sẽ thu thuế gián thu cùng với giá bán hàng
và nộp khoản thuế này vào ngân sách Nhà nước . Gọi là thuế gián thu vì Nhà nước thu
thuế vào người tiêu dùng nhưng lại không thu trực tiếp vào thu nhập của người tiêu
dùng mà lại thu gián tiếp qua người bán hàng hóa, dịch vụ. Trên ý nghĩa đó, người sản
xuất kinh doanh thu thuế gián thu khi bán háng hóa, dịch vụ nếu không nộp đầy đủ số
thuế đã thu vào ngân sách Nhà nước thì có thể coi là hành động tham ô, chiếm đoạt
công quỹ.
Có thể nói thuế gián thu là loại thuế do toàn dân đóng góp; nghiệp vụ tính thuế

60

Bảng : Các loại thuế được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển.
Thuế trực thu Thuế đánh trên tài sản
· Thuế đất · Thuế nhà · Thuế doanh
nghiệp
· Thuế đánh trên chứng khóan

Thuế thu nhập thể
nhân và pháp nhân
· Thuế TNCN · Thuế lợi tức công ty
· Thuế lợi tức siêu ngạch
· Thuế lợi tức do nghề khai thác mỏ
· Thuế đánh vào sự gia tăng vốn

· Thuế đánh vào lợi tức có được từ vốn
tiền tệ
· Thuế di sản và tặng vật · Thuế tài sản cá
nhân
Thuế gián thu
· Thuế Tiêu Dùng Cá Nhân (Thuế TTĐB)

- Thuế Bia - Thuế đường - Thuế xăng
· Thuế tiêu dùng tổng hợp
- Thuế đánh một lần (tổng gộp)
- Thuế đánhnhiều lần (nhiều giai đoạn)
· Thuế GTGT · Thuế muối
· Thuế thuốc lá · Thuế diêm . . .
Thuế độc quyền tài chính
Thuế quan
· Theo nguồn gốc - Thuế xuất khẩu
- Thuế nhập khẩu - Thuế quá cảnh
· Theo mục đích
- Thuế để phục vụ cho huy động vốn
NSNN
- Thuế bảo hộ mậu dịch
- Thuế siêu bảo hộ mậu dịch
- Thuế chống bán phá giá - Thuế ưu đãi
· Theo thuế suất - Thuế quan chuyên biệt
- Thuế quan tính trên giá - Thuế quan hỗn
hợp
Bảo hiểm xã
hội
- Khoản nộp của người làm thuê
- Khoản nộp của người sử dụng lao động.



61

và thu thuế đơn giản, thu kịp thời hơn thuế trực thu; thuế gián thu nằm kín trong giá cả
cho nên dễ thu hơn; người chịu thuế khó nhận biết là mình phải nộp thuế nên ít phản
ứng hơn. Thuế gián thu mang lại nguồn thu thường xuyên và tương đối ổn định cho
ngân sách Nhà nước vì bất luận trong hoàn cảnh nào thì sự tiêu dùng của con người và
xã hội cũng luôn diễn ra và có xu hướng ngày càng phát triển. Đối tượng quản lý thuế
gián thu cũng hẹp hơn so với thuế trực thu, chỉ cần quản lý vào số doanh nghiệp kinh
doanh sản xuất hàng hóa, dịch vụ là có thể thu được thuế của tất cả những người tiêu
dùng hàng hóa dịch vụ trong xã hội. Đối với những nước có nền kinh tế chưa phá triển,
thu nhập còn thấp thì thuế gián thu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu của
ngân sách Nhà nước. Mặt nhược điểm của thuế gián thu chính là tính lũy thoái của nó.
Vì thuế gián thu đánh như nhau trên cùng một loại sản phẩm hàng hóa và số lượng như
nhau thì chịu thuế như nhau, nhưng thực chất tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu
nhập thì người giàu chịu thuế thấp hơn người nghèo; người có thu nhập càng cao thì tỷ
lệ nộp thuế gián thu trên thu nhập càng thấp.
Nếu phân loại theo tính chất lũy tiến và lũy thoái thì có thể phân thành thuế lũy
tiến, thuế theo tỷ lệ và thuế lũy thoái.
Thuế lũy tiến là loại thuế theo đó tỷ lệ đóng thuế tăng lên theo thu nhập. Ở nhiều
nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là ở Mỹ, người ta sử dụng thuế lũy tiến đánh vào
thu nhập một cách rộng rãi
Thuế theo tỷ lệ là loại thuế tính bằng một tỷ lệ cố định trên thu nhập
Thuế lũy thoái là loại thuế đặt gánh nặng thuế lớn hơn lên đầu những gia đình
có thu nhập thấp so với những gia đình có thu nhập cao
Giữa tính lũy thoái hay lũy tiến và việc đánh thuế trực thu hoặc gián thu có quan
hệ rất chặt chẽ, nhưng đôi khi hơi mơ hồ đối với người nộp thuế.
Cấu trúc thuế của nước Mỹ đặt nặng vào thuế thu nhập là một loại thuế lũy tiến-
để gieo ấn tượng đó là một loại thuế công bằng. Tuy nhiên, cần chú ý vì từ “lũy tiến”

có thể gây nhầm lẫn. Đó là thuật ngữ liên quan thuế đánh vào những khoản thu nhập
khác nhau. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng từ lũy tiến có nghĩa tình cảm, tức là hiện đại
hoặc tự do, hoặc đặc biệt đúng đắn.
Nếu phân loại theo chế độ phân cấp quản lý, điều hành ngân sách
Dựa vào tiêu thức này, thuế thường được phân thành: Thuế nhà nước và thuế địa
phương.
Thuế Nhà nước là loại thuế được huy động bởi chính phủ trung ương trên cơ sở
pháp luật và được tập trung vào ngân sách Nhà nước. Ở các nước công nghiệp phát
triển thì thông thường thuế thu nhập, thuế TNCT, thuế quan . . . thuộc nhóm này. Ở
Việt Nam, thuế nhà nước có thể tạm hiểu là các loại thuế được thu 100% vào ngân sách
trung ương; còn thuế địa phương là các loại thuế được thu 100% vào ngân sách địa
phương. Ngoài ra còn có thể điều tiết giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phuơng; đây là các loại thuế được phân phối giữa các cấp ngân sách theo những tỷ lệ

62

nhất định nhằm góp phần bảo đảm cân đối một cách linh hoạt giữa các cấp trong hệ
thống NSNN
Thuế địa phương là loại thuế được chính quyền địa phương thu trên phạm vi
lãnh thổ được phân công và được nộp vào ngân sách địa phương. Thông thường, trong
khuôn khổ nhất thể hóa về mặt cơ cấu thuế ở các nước công nghiệp phát triển, chính
quyền địa phương được ưu tiên thu và tập trung vào ngân sách địa phương thuế tiêu
dùng cá nhân và thuế tài sản.
Phân tích quan hệ tương quan giữa hai loại thuế này, các nhà kinh tế đều thống
nhất rằng tại các nước công nghiệp phát triển tốc độ tăng của thuế điạ phương vượt
đáng kể tốc độ tăng của thuế Nhà nước. Bởi lẽ, Nhà nước trung ương do phải đương
đầu với tình trạng thâm hụt ngân sách đã trút các chi phí gắn liền với việc điếu tiết kinh
tế, đảm bảo xã hội sang tay chính quyền địa phương.
Nếu phân loại theo phương thức sử dụng có thể phân thành thuế tổng hợp và
thuế chuyên dùng.

Thuế tổng hợp là loại thuế tuy được thu từ nhiều nguồn đơn lẻ khác nhau nhưng
được tập trung vào một quỹ tập trung thống nhất của Nhà nước và được sử dụng cho
các mục đích phát triển kinh tế-xã hội có tính chất toàn quốc.
Thuế chuyên dùng là loại thuế thu từ một nguồn hoặc một số nguồn đơn lẻ nhất
định nào đó và được tập trung vào một quỹ nhất định. Quỹ này được sử dụng gắn với
những mục đích đã được xác định trước. Ví dụ điển hình nhất là thuế xăng dầu ở các
nước trong liên minh châu Âu. Chính phủ các nước này đánh thuế rất nặng vào mặt
hàng xăng dầu với các lý do như: khuyến khích việc tiết kiệm sử dụng năng lượng dầu
mỏ, lấy tiền thuế thu đuợc để dùng vào việc bảo vệ môi trường và đầu tư, nghiên cứu
tìm ra các loại nguyên liệu sạch thay thế dầu mỏ. Trên thực tế, đây là một nguồn thu
lớn của ngân sách và các khoản thu được từ thuế xăng dầu - theo nhiều người - lại được
sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau mà nhiều khi không dính dáng gì với các mục
tiêu đã đề ra.
Cách phân loại này đã được hình thành từ trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời.
Ngày nay, chính phủ các nước công nghiệp phát triển chủ yếu là qui định các loại thuế
tổng hợp. Tuy nhiên họ vẫn còn duy trì một vài loại thuế chuyên dùng nhất định để
thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách, quan trọng. Một số nước còn đi xa hơn nữa trong
việc sử dụng thuế tiêu dùng, thuế bảo vệ môi trường như là các loại thuế chuyên dùng
để bù đắp chi phí xã hội trong việc đấu trang chống tệ nạn nghiện hút, sử dụng ma túy,
tiêu dùng rượu quá mức nhằm lành mạnh hóa môi trường xã hội và tự nhiên. . . Ở nước
ta, một số lệ phí, ví dụ như phí giao thông có thể xem là một sắc thuế chuyên dùng.
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
2.1 Thuế - công cụ phân phối thu nhập và Ổn định hoá nền kinh tế
Ngoài chức năng phân phối, thuế còn đảm nhiệm việc tái phân phối thu nhập và

63

ổn định mức cầu. Chức năng này đã có một lịch sử lâu đời. Việc sử dụng thuế để tái
phân phối hoặc làm chức năng ổn định hóa mới chỉ được biết đến trong một thời gian
gần đây.

a) Phân phối
Khi thị trường thực hiện việc phân phối thu nhập thì đòi hỏi của mỗi hộ gia đình
đối với sản lượng đầu ra của nền kinh tế lại phụ thuộc vào nguồn lực tài chính do con
người hoặc không do con người tạo ra và các mức giá thị truờng cho phép bù đắp được
các chi phí. Thu nhập có được là từ tiền lương, lợi tức cho vay, tiền cho thuê và lợi
nhuận. Tổng thu nhập của mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình hoàn toàn không giống nhau.
Một số hộ gia đình không có lao động và cũng không có nguồn lực tài chính để từ đó
nhận được thu nhập. Những người khuyến tật, già yếu, bệnh hoạn, thất nghiệp không
có bất kỳ tài sản nào được tích lũy lại cũng sẽ không thu hoạch được nguồn thu nhập
nào. Các hộ gia đình sống phụ thuộc vào các lao động không có kỹ năng sẽ nhận được
ít thu nhập.
Ngược lại, có những người được thừa kế tài sản, vốn được tích lũy từ thế hệ
trước hoặc tài năng thì có thể nhận được thu nhập gấp hàng chục lần - thậm chí hàng
trăm - lần so với những người thuộc tầng lớp trung lưu. Do đó, thực hiện việc tái phân
phối qua công cụ thuế là điều hợp lý. Ở đây người ta ghi nhận sự đồng tình, nhất trí
giữa các giới khác nhau đối với vấn đề sử dụng thuế với các lý do nói trên, nhưng các
nhà kinh tế và các chính khách lại khó đạt được những điểm chung căn bản nhất đối
với vấn đề xác định phạm vi tái phân phối và mức độ sử dụng thuế để đạt được mục
tiêu này. Ở các nước phương Tây, một bộ phận mong muốn một sự can thiệp ở mức độ
tối thiểu bằng các công cụ thị trường. Họ cổ vũ cho sự nỗ lực làm giảm đói nghèo tuyệt
đối và sử dụng nguồn thu từ thuế đánh theo tỷ lệ để làm điều đó. Một bộ phận khác lại
ủng hộ cho chủ trương làm giảm độ nghèo đói tương đối lẫn tuyệt đối. Để đạt được
mục tiêu này, theo họ, thì nên sử dụng một hệ thống thuế có tính chất lũy tiến đánh
theo nhiều tỷ lệ khác nhau căn cứ vào tùng bậc thu nhập không giống nhau và như vậy,
người giàu sẽ bị đánh thuế nhiều hơn người nghèo.
b) Ổn định hóa
Đây là một trong bốn chức năng kinh tế của chính phủ mới được thừa nhận gần
đây, mặc dù còn tồn tại nhiều quan điểm - nhất trí hay đồng tình - của các giới khác
nhau và đã có nhiều tranh cãi gay gắt giữa những nhà kinh tế và các chính trị gia về
phạm vi phân phối và mức độ sử dụng. Một Nhà nước phúc lợi hiện đại thực hiện bốn

chức năng kinh tế: (i) định ra các khuôn khổ kinh tế - luật pháp, hiến pháp và các qui
tắc của trò chơi kinh tế; (ii) thiết lập chính sách ổn định hóa kinh tế vĩ mô để san bằng
các đỉnh cao và đáy thấp của nạn thất nghiệp và để kiềm chế lạm phát; (iii) phân bổ
nguồn lực cho hàng hóa công cộng bằng cách đánh thuế, chi tiêu và điều tiết khi có sự
thất bại của thị trường; và (iv) phân phối lại tài nguyên bằng cách chuyển giao phúc lợi
xã hội. Nhưng khi bàn đến vấn đề dùng công cụ thuế để đáp ứng nhu cầu phân phối thì

64

họ lại cùng nhau nhất trí rằng việc phân phối qua công cụ thuế là một trách nhiệm phải
có của chính phủ. Điều này không hề liên quan đến cái được gọi là ổn định hóa. Các
nhà kinh tế theo trường phái Keynes lập luận rằng để duy trì nền kinh tế luôn luôn ở
trạng thái ổn định thì cần thiết phải có sự quản lý của nhà nước. Các nhà kinh tế theo
trường phái cổ điển (trọng tiền) xem xét nền kinh tế như một thế ổn định, với các thị
trường vận hành một cách tự do và toàn dụng, như vậy tự bản thân nó đã ổn định rồi và
sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế là không cần thiết. J.M. Keynes đã đưa ra lý
thuyết và chính sách của ông trong những năm chiến tranh - khi mà nước Anh lâm vào
cuộc đại khủng hoảng với mức độ cao, đồng thời người dân phải tự lực cánh sinh -
không nhận được gì từ chính phủ của họ cả. Quan điểm của ông như sau: nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa không tự nó đạt đến mức toàn dụng. Sự toàn dụng trong quá khứ chỉ là
do sự thiếu hụt của mức cầu và qui luật của J.B Say đưa ra - mức cung tự đẻ ra mức
cầu cho chính nó - là không hề có thật. Cần giành cho chính phủ một vai trò làm gia
tăng mức cầu để từ đó đạt đến mức toàn dụng. Chính phủ phải làm điều đó bằng cách
gia tăng đầu tư để tận dụng hiệu ứng số nhân xảy ra đối với việc làm và sản lượng”.
Tuy vậy chính sách của trường phái Keynes đầu tiên hàm ý rằng: không phải lúc
nào cũng xảy ra thất nghiệp, bởi lẽ trong chiến tranh thế giới thứ II, mức cầu và lạm
phát gia tăng quá nhanh đã trở thành một vấn đề lớn. Thuế tăng và các khoản tiết kiệm
bắt buộc phát sinh do các khoản nợ sau chiến tranh đã làm giảm mức cầu của người
tiêu dùng và kìm giữ mức lạm phát ở 5% đến 11% một năm, thấp hơn nhiều so với tỷ
lệ đó trong thế chiến thứ I (lạm phát lúc đó tăng khoảng 20% - 25% mỗi năm). Những

vấn đề này không đi vào quên lãng và năm 1944, một bản luận trình về chính sách và
công ăn việc làm thừa nhận rằng cần phải dành cho chính phủ nhiệm vụ kiểm soát nền
kinh tế nhằm mục đích tránh được tình trạng thất nghiệp cao trong thời kỳ 1920-1930.
Sau những năm chiến tranh, tình trạng thất nghiệp đã được duy trì ở mức thấp. Tỷ lệ
3% - ranh giới giữa mức toàn dụng và thất nghiệp - không phải chờ đến những năm
1960 mới đạt được. Người ta ghi nhận sự tồn tại của một chu kỳ 5 năm sự trồi sụt kinh
tế có thể chấp nhận được. Như vậy, điều tốt đẹp mà chức năng ổn định hóa mang lại là
vai trò chỉnh rõ tức là vai trò cố gắng đảm bảo một sự điều chỉnh mức cầu trong ngắn
hạn để đạt được những cân đối hết sức tinh tế giữa lạm phát thấp và chỉ tiêu công ăn
việc làm. Các quyết định sửa đổi về thuế tỏ ra xứng hợp với mục tiêu trên hơn so với
các quyết định trung ương điều chỉnh về chi tiêu công.
Như vậy, mặc dù Keynes đã từng phác họa ra việc sử dụng đầu tư để thay đổi
mức cầu, nhưng trên thực tế, các chính phủ lại có xu hướng dựa vào công cụ thuế.
Trong những năm được gọi là thời kỳ của chủ nghĩa trọng tiền, tức là trước năm 1979,
đã có nhiều công trình nghiên cứu thiên về chủ đề đánh giá hiệu năng của chính sách
thuế. Có một sự thống nhất cao đạt được giữa các tác giả, đó là: không có sự hiệu quả
và sự mất ổn định thường ở mức tệ hại. Điều này được tóm tắt qua câu: “quá nhiều,
quá trễ”. Những kết luận này do những người theo trường phái Keynes - những người

65

theo đuổi chủ trương cải tiến sự vận hành của các chính sách - rút ra.
Những người phê phán theo trường phái trọng tiền đã nêu ra nhiều luận điểm có
tính chất phản bác. Họ xem xét nền kinh tế như một thể ổn định và lập luận: nếu thị
trường được phép vận hành một cách tự do thì mức cung bằng với mức cầu trên thị
trường lao động cũng như trên thị trường hàng hóa. Họ cho rằng không cần thiết phải
điều chỉnh mức cầu, bởi vì điều này là không hợp lý và tốt hơn hết là chính phủ chỉ nên
thực hiện chức năng đặt ra các luật lệ hơn là trực tiếp can thiệp vào thị trường. Ở Anh,
chính phủ của Đảng Bảo thủ đã theo quan điểm này ngay từ năm họ bắt đầu cầm quyền
thay thế cho chính phủ Công Đảng; còn ở Mỹ, ngược lại, dưới thời của tổng thống

Reagan, chính phủ đã thực hiện hai cuộc thí nghiệm thuyết trọng cung từ năm 1979
đến năm 1981 với nội dung cốt lõi là cắt giảm thuế để tác động vào sản lượng tiềm
năng và từ đó giải quyết các gánh nặng về công ăn việc làm và sức ép của lạm phát.
Với biện pháp chủ yếu là cắt giảm 25% đối với tất cả các khoản TNCN, được thực hiện
làm ba giai đoạn và kết thúc vào tháng 7/1983, hậu quả xảy ra là làm giảm sút thu nhập
liên bang và thâm hụt ngân sách to lớn vào giữa những năm 1980. Một phần của tình
trạng này do bởi những biện pháp được thi hành dựa vào việc phân tích thực trạng của
nước Mỹ theo quan điểm của đường cong Laffer một cách thiếu căn cứ. Theo các tiêu
chuẩn khoa học cổ điển, cuộc thí nghiệm năm 1981 gợi ý rằng các lý thuyết trọng cung
phải bị bác bỏ.
Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể rút ra rằng, thuế là phạm trù tài chính và được
sử dụng để tạo ra các nguồn tài lực thực hiện các chức năng của nhà nước đương
quyền, đồng thời nó cũng là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô hiệu lực của nhà nước.
Bằng vai trò to lớn đó, thuế không ngừng được hoàn thiện và thích ứng với những chu
kỳ của quá trình phát triển.
2.2 Thuế - công cụ khắc phục khiếm khuyết của thị trường
Qua phân tích từ đầu, có thể thấy rằng việc phân bổ các nguồn lực tài chính để
thỏa mãn các nhu cầu vể hàng hóa và dịch vụ công cộng là mục tiêu hàng đầu của thuế.
về mặt lý thuyết, thị trường là nơi hoàn hảo để người dân có thể thỏa mãn các nhu cầu
trực tiếp của mình nhằm đạt đến mức độ tối ưu hóa các phúc lợi nhận được. Nhưng
kinh tế học hiện đại và thực tiễn chỉ ra rằng đôi khi thị trường phải chịu thất bại, như
trường hợp mt số hàng hóa, dịch vụ công cộng: người dân có nhu cầu nhưng thị trường
không thể cung ứng nổi hoặc chỉ được cung ứng dưới mức cầu. Đây là lúc mà cần phải
có vai trò của thuế và các chi tiêu công cộng để sửa chữa sự “bất lực” về phân phối của
thị trường.
a) Hàng hóa công cộng
Thị trường hoàn toàn chịu thất bại trong việc cung cấp các hàng hóa công cộng.
Điều này xảy ra bởi vì các loại hàng hóa này có tính chất đặc biệt. Một hàng hóa hay
dịch vụ mà được coi là công cộng nếu một hoặc cả hai tính chất sau đây được thỏa


66

mãn:
Sự phát sinh thêm một người tiêu dùng loại hàng hóa (hay dịch vụ) này hoàn toàn
không làm tăng thêm chi phí. Ví dụ: có thêm một người đi bộ trên một con đường được
chiếu sáng vào ban đê không làm tăng thêm chi phí thắp sáng đường sá; hoặc thêm một
chiếc ô tô đi qua cầu vào lúc vắng xe cũng không làm phát sinh thêm chi phí. Để đạt
được mức phúc lợi tối đa qua việc thụ hưởng các hành hóa nêu trên, và các loại hàng
hóa tương tự, người dân cần được cung cấp chúng với giá bằng 0. Không một nàh tư
nhân nào sẵn sàng làm việc này và chỉ có Chính phủ mới phải đảm trách việc sản xuất
và cung ứng chúng (tất nhien là qua trung gian của nhà thầu) miễn phí. Ở đây, việc
đánh thuế sẽ đóng vai trò cung cấp các nguồn lực tài chính.
Sự tồn tại của những ke ăn không. Điều đó có nghĩa rằng sự cung cấp của thị
trường đối với hàng hóa công cộng là không thể xảy ra được. Một kẻ “ăn không” là
một người được tiêu dùng hàng hóa phải tốn kém mới sản xuất ra được mà không phải
trả tiền cho hàng hóa đó. Vấn đề kẻ ăn không đặc biệt được áp dụng cho hàng hóa công
cộng vì tính chất không thể phân chia của chúng. Ví dụ như vấn đề quốc phòng, giả sử
có một thị trường được thiết lập dành cho quốc phòng. Thậm chí mỗi người đều cảm
thấy rằng chúng ta cần quốc phòng, thì ngược lại, không một ai có động cơ để mua
phần đóng góp của mình vào quốc phòng cả. Vì lượng quốc phòng mà tôi có cùng bằng
bất kỳ lượng của ai khác, cho nên tôi có động cơ rất mạnh là đợi cho bất kỳ ai khác
mua hàng hóa đó chứ không dại gì đóng góp phần công bằng của mình. Tôi sẽ được ăn
không tất cả những thứ do bất kỳ ai khác mua. Nhưng tất nhiên, nếu ai cũng được tất cả
những người khác mua quốc phòng, thì sẽ không có hàng hóa quốc phòng nữa.
Ngoài các ví dụ nêu trên, hàng hóa công cộng còn bao gồm các luật lệ và quy
tắc, việc làm sạch đường, phòng chống lũ lụt . . .
Để sửa chữa thất bại của thị trường trong việc cung cấp hàng hóa công cộng,
chính phủ buộc phải đánh thuế vào người dân, làm mọi người được hưởng hàng hóa
công cộng.
Xét về một khía cạnh đơn giản hơn, hàng hóa công cộng khác vơi hàng hóa tư nhân ở

đặc điểm sau đây: “Hàng hóa công cộng là một loại hàng mà thậm chí có một người
dùng tới rồi, thì những người khác vẫn dùng được”. Trong khi đó hàng hóa tư nhân
(hoặc cá nhân) là một loại hàng mà nếu được một người tiêu dùng rồi thì ngườikhác
không thể dùng được nữa.
Hàng hóa công cộng - dù là các hàng hóa đã được trình bày ở trên, hay là lúc
bạn nghĩ về người sĩ quan cảnh sát đi tuần, một loại vắc xin chống bệnh đậu mùa …
hoặc bất cứ một hoạt động nào của chính phủ - có yếu tố chung sau đây: “Lợi ích của
một hàng hóa công cộng không giống như của một hàng hóa thuần túy tư nhân do bởi
việc một cá nhân tiêu dùng hàng hóa công cộng sẽ tạo ra những tác động tiêu dùng bên
ngoài không phân chia được đối với nhiều người chứ không phải chỉ một cá nhân đó.
Ngược lại, nếu một mặt hàng có thể chia nhỏ được có thể bán riêng từng phần với giá

67

cạnh tranh cho một cá nhân mà không có tác động bên ngoài đối với người khác thì đó
là một mặt hàng tư nhân. Hàng hóa công cộng đòi hỏi phải có hành động tập thể trog
khi hàng hóa tư nhân có thể do thị trường cung cấp”.
b) Hàng hóa hỗn hợp
Có nhiều hàng hóa tuy do chính phủ cung cấp nhưng không được xếp vào nhóm
hàng hóa công cộng, ví dụ như giáo dục, chăm sóc sức khỏe và thu dọn rác… dù chúng
cung cấp được lợi ích mang tính chất độc quyền; bởi lẽ những người tiêu dùng thêm
vào sẽ làm tăng chi phí và sự độc quyền lúc nào cũng có thể thực hiện được (dịc vụ này
có thể bị những kẻ ăn không chối từ). Tuy nhiên chúng lại được cung cấp bởi khu vực
công và do đó chúng đòi hỏi phải có thuế tài trợ. Có hai cách giải thích về điều này:
thứ nhất, đó là những trục trặc trong việc phân phối của thị trường và thứ hai, là các lý
do liên quan đến viẹc tiêu dùng các mặt hàng khuyến dụng. Những hàng hóa này được
gọi là hàng hóa hỗn hợp. Đó là các hàng hóa tạo ra lợi ích bên ngoài cũng như lợi ích
của cá nhân nhưng nếu được cung cấp bởi thị trường thì mưc cung sẽ nằm dưới mức
cầu. Thị trường của hàng hóa hỗn hợp không phải chịu thất bại hoàn toàn như đối với
hàng hóa công cộng, bởi vì sự độc quyền là hoàn toàn có thể xảy ra và những sự ưu đãi

được coi là có thể bộc lộ ra được; nhưng bên cạnh đó thị trường lại không cung cấp
được chất lượng tối ưu do việc cung cấp chỉ có tính chất tư nhân và điều này đồng
nghĩa với việc cung cấp dưới mức nhu cầu.
Được coi là hàng hóa hỗn họp là những hàng hóa có sự pha trộn giữa các đặc
điểm của hàng hóa tư nhân (lợi ích nội tại có tính chất cạnh tranh) và các đặc điểm của
hàng hóa công cộng (lợi ích bên ngoài có tính chất đọc quyền). Chúng bao gồm giáo
dục, y tế, vận chuyển công cộng, thu gom rác và các dịch vụ phòng cháy chữa cháy…
Giáo dục cung cấp một lực lượng lao động có học thức, có khả năng tạo các sản lượng
đầu ra và lợi tức lớn hơn cho toàn thể cộng đồng. Y tế bảo vệ toàn thể cộng đồng bằng
cách chữa chạy cho những người mắc bệnh và bảo tồn lực lượng lao động cho đất
nước. Vận chuyển công cộng làmgiảm sự tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường,
và do đó, nó tạo ra lợi ích cho cả người sử dụng đường sá và tất cả cộng đồng.
Chính phủ có thể sửa chữa tình trạng cung cấp dưới mức nhu cầu đối với hàng
hóa hỗn hợp bằng cách tự cung cấp hàng hóa và dịch vụ hoặc thông qua việc trợ cấp để
làm giảm giá và tăng sản lượng đầu ra. Vai trò của thuế là cung cấp các nguồn lực tài
chính để tài trợ cho việc cung cấp có tính chất công cộng hoặc tài trợ thông qua các
khoản trợ cấp. Trợ cấp, do đó, tự bản thân nó có thể được xem như là một khoản thuế
âm.
c). Các lợi ích và chi phí ngoại ứng
Một ngoại ứng (ngoại tác) tồn tại khi việc sản xuất hoặc tiêu dùng một mặt hàng
trực tiếp ảnh hưởng đến các doah nghiệp và người tiêu dùng không can dự vào việc
mua bán hàng hóa đó, những ngoại ứng này thường không được phản ánh đầy đủ theo
giá thị trường. Ví dụ như vấn đề ô nhiễm. Một hãng sản xuất hóa chất và tống chất thải

68

xuống sông. Chất thải gây ô nhiễm nguồn nước địa phương, giết hại cá và chim chóc
và tạo ra mùi hôi thối khó chịu. Các ảnh hưởng phụ bất lợi này thể hiện các chi phí đối
với xã hội để sản xuất ra hóa chất đó, chúng vẫn phải được thể hiện một cách thích ứng
trong giá cả thị trường của loại hóa chất này nhưng thực tế lại không như vậy. Giá thị

trường của sản lượng do công ty hóa chất làm ra sẽ không phản ánh đầy đủ chi phí sản
xuất thực sự đối với xã hội, trừ phi công ty hóa chất này buộc phải thanh toán tiền cho
những thiệt hại do sự ô nhiễm của nhà máy gây ra. Trong trường hợp này, có một ngoại
ứng trong việc sản xuất hóa chất.
Ngoại ứng có thể có lợi hoặc không có lợi cũng có thể gây hại. Vấn đề này có
liên quan đến các lợi ích từ bên ngoài của một hàng hóa với sự gia tăng phúc lợi của
người dân không phải là người tiêu dùng trực tiếp hàng hóa này. Ví dụ như nếu phần
lớn dân số của một quốc gia được tiêm chủng ho gà thì thậm chí nếu không được chữa
bệnh, họ cũng được bảo vệ về mặt sức khỏe bởi vì họ ít tiếp xúc với loại bệnh này và
như thế họ đã nhận được các lợi ích từ bên ngoài. Một người chủ quét vôi lại căn nhà
của ông ta thì những người láng giềng sẽ nhận được lợi ích dôi ra do không phải nhìn
cảnh căn nhà tróc sơn, ọp ẹp nữa. Trong tất cả các ngoại ứng, có một điều gì đó ảnh
hưởng đến các chi phí của hãng sản xuất hoặc phúc lợi của người tiêu dùng (ví dụ như
sự ô nhiễm hoặc cảnh quan của những ngôi nhà mới quét sơn phần lớn dân chúng được
tiêm chủng ho gà) nhưng cái đó không được trao đổi, buôn bán ngoài thị trường. Các
nhà kinh tế thường nói các ngoại ứng như thế được gây ra bởi “các thị trường vắng
mặt”.
Thuế có thể được sử dụng để sửa chữa các trục trặc trong việc phân bổ các
nguồn lực tài chính phát sinh bởi các tác động âm tính từ bên ngoài (hoặc các chi phí
ngoại ứng). Một ví dụ về loại chi phí ngoại ứng là sự ô nhiễm không khí hay nguồn
nước gây ra bởi các quá trình sản xuất. Điều này có thể làm phát sinh các loại chi phí
chẳng hạn như chi phí để làm sạch nước ở một dòng sông bị ô nhiễm, hoặc sự ô nhiễm
không khí có thể làm nảy sinh chi phí cho việc điều trị bệnh hoăc trả lại sự trong lành ở
các hộ gia đình trong khu vực bị ô nhiễm, hoặc mưa ãit ở các nơi khác. Các chi phí này
là chi phí sản xuất nhưng chúng lại không nảy sinh từ phía người sản xuất hoặc tiêu
dùng sản phẩm, bởi lẽ tất cả các chi phí này không nằm trong giá sản phẩm nên mức
giá phản ánh thấphơn giá trị thực và sản lượng đấu ra cao hơn mức đạt tối ưu. Các hoạt
động tiêu dùng cũng có thể làm phát sinh chi phí ngoại ứng, như chi phí lái xe, hút
thuốc, uống rượu là các ví dụ điển hình có thẻ nêu ra. Đánh thuế vào nhiên liệu, thuốc
lá và rượu hay nước giải khát có cồn có thể bù đắp được các chi phí ô hiễm, bệnh tật và

các tai nạn, đồng thời có thể giảm đi một cách tích cực chi phí tiêu dùng và chi phí
ngoại ứng, bởi giá cả cao hơn sẽ làm thay đổi mức cầu thực tế của các sản phẩm nêu
trên.
d) Độc quyền
Việc không thực hiện được vấn đề phân phối các nguồn lực thông qua cơ chế thị

69

trường, cũng có thể xảy ra khi vấn đề cạnh tranh gặp bế tắc. Độc quyền làm giảm đi
sản lượng đầu ra nhằm mục đích thu được giá cả cao hơn và sự trục trặc về mặt phân
phối có thể xảy ra bởi vì sản lượng đầu ra nằm dưới mức cầu mà phúc lợi xã hội được
tối đa hóa. Nhà độc quyền là một người bán duy nhất nên họ không lo bị những người
khác cạnh tranh với giá thấp hơn và vì thế kết cục là người tiêu dùng phải trả một mức
giá cao hơn mức mà lẽ ra họ phải trả.
Có một số lãnh vực độc quyền mà không sao tránh khỏi, các dịch vụ công cộng
cơ bản (ví dụ như khí đốt và điện năng) là những lĩnh vực độc quyền tiềm năng. Chính
phủ có thể điều tiết các công ty kinh doanh trong lĩnh vực này bằng cách kiểm soát giá
cả mà họ được phép đòi phải trả hoặc chính phủ có thể tự mình đảm đương việc cung
cấp các sản phẩm có liên quan. Một số các độc quyền khác có thể là mang tính chất
nhân tạo thông qua sự thao túng của các hãng sản xuất. Ở đây chính phủ can thiệp vào
bằng các luật cạnh tranh hoặc nhằm mục đích loại trừ thế độc quyền hoặc kiềm chế sự
độc quyền bằng cách kiểm soát giá cả. hiều người cho rằng, thuế hoàn toàn không thể
làm gì đơực để thay đổi mức sản lượng đầu ra mà tại đó nhà độc quyền có thể tối đa
hóa lợi nhuận. Nhưng một số nhà kinh tế khác lại lập luận: thuế có thể loại trừ được lợi
nhuận độc quyền khi thuế được thiết kế phù hợp với vai trò phân phối ma tự nó lúc nào
cũng được khảng định.
e) Hàng khuyến dụng
Một số hàng hóa và dịch vụ do khu vực công sản xuất ra được gọi dưới tên là
hàng khuyến dụng. Đây là những hàng hóa mà xã hội (đại diện là nhà nước) cho rằng
người dân nên tiêu dùng hoặc tiếp nhận, cho dù thu nhập của họ ở mức nào đi nữa. Lý

lẽ biện minh cho điều này thể hiện ở chỗ: người tiêu dùng có thể không biết được lợi
ích thực sự của một số hàng hóa, bởi lẽ họ không lập tức nhìn nhận vấn đề một cách rõ
ràng (chẳng hạn như đối với mặ hàng giáo dục), hoặc bởi lẽ người thụ hưởng lợi tức là
một đứa trẻ (cũng lại với ví dụ về giáo dục) hay là vì lý do việc thanh toán và lợi nhận
được không trùng khớp về mặt thờigian (ví dụ bảo hiểm y tế và việc điều trị). Một số
nhà kinh tế đặt ra câu hỏi: “Liệu có một sự biện minh kinh tế nào cho sự can thiệp của
chính phủ đối với hàng khuyến dụng hay không?” và cũng tự trả lời như sau: “Xét theo
một ý nghĩa nào đó thì luôn luôn có sự biện minh như vậy, bởi vì cảnh tượng môt ai đó
vô gia cư tạo nên một ngoại ứng khiến cho hết thảy mọi người khác không vui. Bằng
việc cung cấp nơi trú ngụ cho những người mà không thì sẽ lang thang ngoài phố,
chính phủ đã làm cho tất cả chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn”.
Có một số hàng hóa vừa có thể được xếp vào loại hàng hóa hỗn hợp, vừa có thể
xếp vào loại hàng hóa khuyến dụng. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một khác biệt rõ ràng giữa
các lý do cung cấp hàng hóa hỗn họp và nguyên cớ cung ứng hàng hóa khuyến dụng.
Hàng hóa hỗn hợp là một phần của chức năng phân phối, nó được cung cấp phù hợp
vói việc ưu đãi mang tính chất nội tại và ngoại vi của người tiêu dùng gắn liền với chức
năng phân phối, nhưng việc tiêu dùng chúng lại không chú ý đến sự ưu đãi đối với

70

người tiêu dùng.
3. Thuế giá trị gia tăng
3.1 Khái Niệm
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm
của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Thực chất đó là một loại thuế doanh thu đánh vào mỗi giai đoạn sản xuất lưu thông
hàng hóa kể từ khi còn là nguyên liệu thô sơ cho đến thành phẩm và cuối cùng là giai
đoạn tiêu dùng. Chính vì vậy mà có người gọi là thuế doanh thu có khấu trừ số thuế đã
nộp ở giai đoạn trước. Thuế giá trị gia tăng được phép tính cộng vào giá bán hàng hóa,
dịch vụ, và do người tiêu dùng chịu.

3.2. Các Nguyên Tắc Của Thuế Giá Trị Gia Tăng
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế đánh trên diện rộng, bởi lẽ qua loại thuế
này, về mặt lý thuyết, mọi hàng hóa và dịch vụ đều có thể đưa vào diện đánh thuế.
Thuế giá trị gia tăng đánh trên giá. Theo nguyên tắc này thì số tiền thuế phải trả được
tính theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá hàng hóa chứ không phải là một số tiền
nhất định tính trên mỗi đơn vị hàng hóa, dịch vụ.
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế đánh trên nhiều giai đoạn của qui trình sản
xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ.
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế trên số tiêu thụ cuối cùng, đặt trên cơ sở một sự
bù trừ ở biên giới theo nguyên tắc đáo xứ. Theo nguyên tắc này, gánh nặng thuế cuối
cùng sẽ do quốc gia tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ gánh chịu. Điều này đồng nghĩa với
việc mọi hàng hóa tiêu dùng trong nền kinh tế đều phải chịu một hoặc một số thuế suất
như nhau) chứ không phải dựa trên nguyên tắc nguyên xứ ( là nguyên tắc mà dựa vào
đó, không có bất cứ một sự điều chỉnh tại biên giới đúng nghĩa nào được áp dụng đối
với thuế giá trị gia tăng. Điều đó có nghĩa là mọi hàng hóa sản xuất trong một năm tài
khóa đều chịu thuế như nhau bất kể hàng hóa đó được tiêu thụ ở đâu). Do đó, thuế giá
trị gia tăng đảm bảo được tính trung lập trong những giao dịch quốc tế thông qua việc
miễn thuế đối với những hàng xuất khẩu và đánh thuế trên hàng nhập khẩu. Tất nhiên
điều này dựa trên giả định phải có một hệ thống kiểm soát tại biên giới và cơ quan hải
quan sẽ chứng nhận số hàng xuất khẩu và đánh thuế hàng nhập khẩu. Nếu điều này
không thực hiện được thì khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu – theo kinh nghiệm của khối
EU – nên được thay thế bằng khái niệm “giao hàng” và “nhận hàng”: các nghiệp vụ
giao hàng trong trường hợp này được miễn thuế, các trường hợp nhận hàng phải chịu
thuế.
3.3. Cơ Chế Vận Hành Của Thuế Giá Trị Gia Tăng
a) Đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT cơ sở sản xuất kinh doanh
khi bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ phải ghi rõ trên hoá đơn các yếu tố theo quy định là

71


giá bán chưa có thuế, thuế GTGT phải nộp và giá thanh toán (người mua phải trả cho
người bán trong đó có cả thuế GTGT).
Ví dụ: cơ sở X bán 100 đôi giầy, giá chưa có thuế là 300.000đ/ đôi. Vậy giá tính thuế
là: 100 đôi x 300.000đ / đôi = 30.000.000đ, nếu tính thuế suất 10 % thì:
Thuế GTGT phải nộp: 30.000.000đ x 10 % = 3.000.000đ
Giá thanh toán: 30.000.000đ + 3.000.000 = 33.000.000đ
b) .Đối với hàng hoá nhập khẩu tại cửa khẩu (cif) cộng với thuế nhập khẩu (nếu có)
Ví dụ: cơ sở X nhập khẩu xe máy nguyên chiếc, giá nhập khẩu tại cửa khẩu (cif) là
26.000.000đ/ chiếc. Thuế suất nhập khẩu 50% vậy giá tính thuế của hàng xe máy nhập
khẩu là 26.000.000đ + 26.000.000đ x 50% = 39.000.000đ. Nếu hàng nhập khẩu được
miễn giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế GTGT là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng
với thuế nhập khẩu theo mức thuế đã được miễn giảm.
c). Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu tặng, giá tính thuế
GTGT là giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hạc tương đương tại thời
điểm phát sinh hoạt động này.
Ví dụ: cơ sở x tặng cơ quan M 20 đôi giầy khi đó giá tính thuế GTGT là 20 đôi x
300.000đ/ đôi = 600.000đ
Thuế suất 10 % = thuế GTGT phải nộp: 6.000.000đ x 10 % = 600.000đ.
d) Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung cấp cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt
Nam thì giá chưa có thuế GTGT được xác định theo hợp đồng, trường hợp hợp đồng
lại không xác định cụ thể số thuế GTGT phải nộp thì giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ
mà phía Việt Nam phải trả cho phía nước ngoài.
Ví dụ: Công ty X thuê 1 Công ty kiểm toán nước ngoài vào kiểm toán, giá thanh toán
theo hợp đồng phải trả là 500 triệu đồng thì giá tính thuế GTGT của công ty A về dịch
vụ này là 500 triệu đồng.
e) Đối với trường hợp cho thuê tài sản (không phân biệt tài sản và hình thức cho thuê)
giá tính thuế là giá cho thuê chưa có thuế. Nếu cho thuê trong nhiều kỳ mà tiền thuê trả
từng kỳ hoặc trả trước cho nhiều kỳ thì giá tính thuế GTGT là số tiền thuê đã trả giá
tính thuế còn bao gồm cả các khoản phụ thu và phí thu thêm mà đơn vị cho thuê được
hưởng.

Ví dụ 1: Tháng 1/1999 Công ty X cho thuê 1 ngôi nhà hợp đồng ghi rõ:
- Thời hạn thuê 5 năm
- Tiền thuê 200 triệu / năm
- Mỗi năm trả 1 lần vào tháng 1 hàng năm.
Giá tính thuế GTGT trong trường hợp này là 200 triệu đồng.
Ví dụ 2: cũng ví dụ trên nhưng hợp đòng ghi: trả 1 lần cho 5 năm. Thời gian trả tháng
1/1999.
Giá tính thuế GTGT trong trường hợp này là 1.000 triệu đồng.
Ví dụ 3: Cũng ví dụ 2, hợp đồng ghi thêm: bên cạnh thuê phải sửa chữa, nâng cấp nhà

72

cho thuê với chi phí 100 triệu, Chi phí này bên đi thuê sẽ trả toàn bộ cùng với số tiền
thuê nhà.
Giá tính thuế GTGT là 1.000 triệu đồng + 100 triệu = 1.100 triệu.
Trường hợp luật pháp có quy định về khung giá cho thuê thì giá tính thuế GTGT được
xác định trong khung giá quy định.
f) Đối với hàng bán theo hình thức trả góp, giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế
trả 1 lần không tính theo số tiền trả góp từng kỳ ( không bao gồm khoản lãi trả góp).
Ví dụ: một cửa hàng bán xe máy trả góp, nếu trả ngay thì người mua phải trả là
30.000.000đ/ chiếc, nếu mua hình thức trả góp thì người mua phải trả ngay
10.000.000đ. Số còn lại trả đều trong 24 tháng, mỗi tháng trả 1.000.000đ/ Tổng số tiền
người mua phải thanh toán là 34.000.000đ. Nhưng giá tính thuế trong trường hợp này
chỉ là 30.000.000đ.
g) Đối với gia công hàng hoá, giá tính thuế GTGT là giá gia công chưa có thuế bao
gồm: tiền công, nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và chi phí khác để gia công.
Ví dụ: Cơ sở X nhận gia công 1 lô hàng với tổng chi phí là:
- Nhân công: 100 triệu
- Điện nước: 10 triệu
- Xăng dầu: 30 triệu


Tổng cộng 140 triệu
Giá tính thuế GTGT là 140 triệu.
h) Đối với hoạt động xây dựng và lắp đặt, giá tính thuế GTGT là giá xây dựng, lắp đặt
chưa có thuế GTGT. Trường hợp xây dựng, lắp đặt thực hiện thanh toán theo tiến độ
thì giá tính thuế là giá thanh toán từng hạng mục công trình hoặc phần việc hoàn thành,
bàn giao.
Ví dụ 1: Công ty xây dựng X nhận thầu xây dựng 1 khu chung cư. Tổng dự toán công
trình là 500 tỷ đồng với phương thức chìa khoá chao tay. Tháng 10 /1 999 công trình
đã hoàn thành bàn giao và bên giao thầu đã chấp nhận thanh toán theo giá tổng dự toán
500tỷ.
- Giá tính thuế GTGT trong trường hợp là 500 tỷ đồng.
Ví dụ 2: cũng ví dụ trên nhưng công trình chia ra phần xây thô 200 tỷ, phần hoàn thiện
300 tỷ. Bên giao thầu chấp nhận thanh toán theo từng hạng mục.
- Tháng 3 hoàn thành phần xây dựng bên giao thầu chấp nhận thanh toán 200 tỷ giá
tính thuế GTGT là 200 tỷ.
- Tháng 10/1999 xong phần hoàn thiện, bên giao thầu, chấp nhận thanh toán 300 tỷ.
Giá tính thuế GTGT là 300 tỷ.
i) Đối với hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù được dùng loại chứng từ thanh toán ghi
giá thanh toán thì giá thanh toán là giá đã có thuế. Giá chưa có thuế làm căn cứ tính

73

thuế GTGT được tính như sau:

Giá thanh toán
=
1 + (%) thuế suất của hàng hoá DV đó
Ví dụ: Công ty vận tải hành khách X trong tháng 1/1999 nhận vận chuyển 1.000 lượt
hành khách. Giá 1 vé 110.000đ/ lượt/ khách. Vậy tổng doanh thu (đã có thuế GTGT

là):
1.000 lượt x 110.000 đ/ lượt = 110.000.000đ
110.000.000đ
= = 100.000.000đ
1 + (10%)
k) . Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ hưởng tiền công, hoặc tiền hoa hồng như
dịch vụ môi giới, đại lý Thì giá tính thuế GTGT là tiền công hoặc tiền hoa hồng thu
được từ hoạt động đó.
Ví dụ: Cơ sở A làm đại lý bán xe đạp tỷ lệ hoa hồng được hưởng 2 % trên doanh số.
Tháng 1/1999 cơ năng bán được 200 xe đạp, giá (chưa có thuế GTGT) là 500.000đ/
chiếc.
Giá tính thuế GTGT của dịch vụ này ở cơ sở A là:
200 chiếc x 500.000đ/ c x 2 % = 2.000.000đ
Thuế xuất thuế GTGT luật thuế GTGT quy định 4 mức thuế suất 0 %, 5%, 10 %, 20 %
và được Bộ tài chính quy định cụ thể trong Thông tư 89/ 1998/ TT - BTC ngày
27/6/1998
Phương pháp tính thuế GTGT có 2 phương pháp
a) Phương pháp khấu trừ thuế:
Phải sử dụng hoá đơn GTGT. Khi lập hoá đơn phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy
định và ghi rõ: giá bán chưa có thuế, (kể cả phụ thu, phí ngoài giá bán (nếu có) thuế
GTGT, tổng giá thanh toán:
Số thuế GTGT phải nộp được tính theo công thức
Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra = giá tính thuế x Thuế suất
Trường hợp hoá đơn không ghi rõ các chi tiết (giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và
tổng số tiền thanh toán) thì giá tính thuế là số tiền người mua phải thanh toán đồng thời
đơn vị mua hàng cũng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với trường hợp
này.
 Thuế GTGT đầu vào là số thuế GTGT được ghi trên hoá đơn GTGT của hàng

hoá, dịch vụ mà cơ sở mua vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá
nhập khẩu.

74

 Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo quy định cụ thể
+ Chỉ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng vào sản
xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chưa thuế GTGT.
+ Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phát sinh mua vào trong tháng nào thì được
khấu trừ toàn bộ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó không phân biệt đã
xuất dùng hay chưa xuất dùng.
Một số điể m lưu ý:
 Nếu số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra thì chỉ
được khấu trừ thuế GTGT đầu vào bằng thuế gtgt đầu ra của tháng đó. Số thuế GTGT
đầu vào còn lại được khấu trừ tiếp vào kỳ tính thuế sau (hoặc được xem xét hoàn thuế
theo quy định).
 Trường hợp hàng hoá dịch vụ mua vào đồng thời dùng để sản xuất kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT, thì số thuế GTGT đầu
vào được khấu trừ là số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng để sản xuất
kinh doanh dịch vụ, hàng hoá chịu thuế GTGT. Nếu không hạch toán riêng được thuế
đầu vào cho từng loại thì thuế GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ (%) trên doanh số bán ra
của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng hàng hoá, dịch vụ bán ra trong
tháng của cả 2 loại hàng hoá, dịch vụ.
 Trường hợp số thuế GTGT không được khấu trừ có giá trị lớn thì tính vào giá
vốn hàng hoá bán ra trong kỳ tương ứng với doanh thu trong kỳ, số cònlại tính
vào giá vốn hàng bán của kỳ sau.
 Trường hợp cơ sở sản xuất chế biến, mua nguyên liệu là nông, lâm, thuỷ sản
chưa qua chế biến của người sản xuất bán ra không có hoá đơn thì sẽ được khấu
trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ % trên giá trị hàng hoá mua vào. Song điều này

không áp dụng đối với trường hợp các sản phẩm này được làm nguyên liệu để
sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu.
 Trường hợp cơ sở kinh doanh mua hàng hoá, dịch vụ dùng vào hoạt động kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT (hoạt động sự
nghiệp, dự án, hoạt động văn hoá ) thì số thuế GTGT đầu vào được tính vào
giá trị vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào.
 Thuế GTGT đầu vào của TSCĐ được quy định và khấu trừ như sau:
1.Đối với cơ sở kinh doanh có đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, có thuế đầu vào của
TSCĐ thì cũng được khấu trừ bình thường như đối với hàng hoá, dịch vụ khác. Nếu số
thuế đầu vào của TSCĐ được đầu tư quá lớn, đã được cơ sở khấu trừ liên tục trong
vòng 3 tháng mà số thuế chưa được khấu trừ vẫn còn lớn thì được quyền yêu cầu cơ
quan thuế hoàn lại số thuế chưa được khấu trừ.
- Đối với cơ sở đầu tư mới, chưa có doanh thu bán hàng, chưa có thuế GTGT đầu ra,
nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên thì cơ sở đầu tư mới được xem xét hoàn thức vào

75

đầu năm tiếp theo.
b) Phương pháp trực tiếp trên GTGT:
Theo phương pháp này, số thuế GTGT phải nộp được xác định như sau:
Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra x Thuế suất
thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ tương ứng
Trong đó:
GTGT của hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT = Giá thanh toán của dịch vụ hàng hoá
bán ra - Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng
 Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra là giá thực tế mua, bán
ghi trên hoá đơn gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên
bán được hưởng, bên mua phải trả.
 Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng được xác định bằng
giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào mà cơ sở kinh doanh đã dùng cho sản xuất

kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra.
Trường hợp cơ sở kinh doanh chỉ chứng minh đầy đủ được chứng từ hoá đơn hợp lệ
của dịch vụ hàng hoá bán ra và xác định đúng được doanh thu trong kỳ nhưng không
có đủ chứng từ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ tương ứng thì GTGT được tính bằng
công thức:
GTGT = Doanh thu x Tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu
Trường hợp cơ sở kinh doanh không hoặc chưa thực hiện đầy đủ hoá đơn mua, bán
hàng hoá thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình thực tế, ấn định doanh thu và tỷ lệ (%)
GTGT trên doanh thu.
GTGT xác định đối với 1 số ngành nghề như sau:
 Đối với xây dựng, lắp đặt là chênh lệch giữa số tiền thu về xây dựng, lắp đặt trừ
chi phí về vật tư, động lực và 1 số phí mua ngoài khác để phục vụ xây dựng
lắp đặt công trình, hạng mục công trình đó.
 Đối với hoạt động vận tải là chênh lệch giữa số tiền thu về cước vận tải, bốc
xếp trừ chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và 1 số phí mua ngoài khác dùng
cho hoạt động vận tải.
 Đối với kinh doanh ăn uống là chênh lệch giữa tiền thu về bán hàng ăn uống,
tiền phục vụ và các khoản thu khác trừ tiền mua hàng hoá, chi phí phục vụ mua
ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống.
 Đối với hoạt động kinh doanh khác là chênh lệch giữa tiền thu về hoạt động
kinh doanh trừ chi phí về hàng hoá, dịch vụ mua ngoài để thực hiện hoạt động
kinh doanh đó.
 Đăng ký và kê khai thuế được quy định tại chương 3 Luật thuế GTGT
4 . Thuế thu nhập doanh nghiệp
4.1 Khái niệm

76

Thuế TNDN hay còn gọi là thuế thu nhập công ty (thuế TNCT) (Corporate
Income Tã). Ở Mỹ, thuế TNCT được sử dụng lần đầu vào năm 1909 và cho tới Chiến

tranh thế giới thứ II, thuế TNCT vẫn chiếm số lượng nhiều hơn thuế thu nhập cá nhân
nhưng sau đó thì xu hướng này đảo ngược và vào những năm 60 của thế kỷ XX thì
thuế TNCN đã lớn hơn gấp đôi thuế TNCT.
Ở Việt Nam, Luật thuế TNDN được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua
ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành ngày 1/1/1999nhằm thay cho Luật thuế lợi tức
trước đây. Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập sau khi trừ các chi phí
liên quan đến thu nhập của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Thuế TNDN ban hành nhằm đảm bảo bao quát và điều tiết được tất cả các
khoản thu nhập đã, đang và se phát sinh của các cơ sở kinh doanh hoạt động trong nền
kinh tế thị trường. Thuế TNDN còn nhằm khuyến khích các nhà đầu tư vào Việt nam,
khuyến khích các tổ chức và cá nhân trong nước bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh. Vai trò này của thuế TNDN được biểu hiện rất rõ nét qua các ưu đãi về thuế
suất và các trường hợp miễn, giảm.
Mặt khác, thuế TNDN tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần
kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các
qui định về thuế suất và các ưu đãi khác được tập hợp rõ ràng, thống nhất trong luật
thuế TNDN là một biểu hiện.
4.2 Nội dung cơ bản của luật thuế thnd
4.2.1 Đối tượng áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp
Theo qui định tại Điều 1, Điều 3 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
và Điều 1 của Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 1998 của Chính phủ
qui định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì những tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (gọi chung là cơ sở kinh doanh) dưới đây có
thu nhập chịu thuế đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp:
a) Các tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ:
+ Doanh nghiệp Nhà nước, bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh
và doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần;
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp
tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;

+ Công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không
theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
+ Các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vű trang nhân
dân và các đơn vị hành chính, sự nghiệp có tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ;
+ Hợp tác xã, tổ hợp tác;

77

+ Doanh nghiệp tư nhân;
+ Các tổ chức khác có sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
b) Cá nhân trong nước sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ:
+ Cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh.
+ Hộ cá thể.
+ Cá nhân hành nghề độc lập (trực tiếp kinh doanh): Bác sĩ, luật sư, kế toán viên, kiểm
toán viên, họa sĩ, kiến trúc sư, nhạc sĩ và những người hành nghề độc lập khác.
+ Cá nhân cho thuê tài sản như: Nhà, đất, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị và các
loại tài sản khác.
c) Công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Công ty nước ngoài được coi là có thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở
thường trú tại Việt Nam trong các trường hợp sau:
+ Công ty đó có tại Việt Nam: trụ sở điều hành, chi nhánh, văn phòng (trừ văn phòng
đại diện thương mại không được phép kinh doanh theo pháp luật Việt Nam), nhà máy,
xưởng sản xuất, kho giao nhận hàng hóa, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu hoặc
khí đốt, địa điểm thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên hay các thiết bị,
phương tiện phục vụ cho việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên.
+ Công ty đó có tại Việt Nam: địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt hoặc
lắp ráp; các hoạt động giám sát xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp.
+ Công ty đó thực hiện việc cung cấp dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ tư vấn) ở Việt Nam
thông qua nhân viên của công ty hay một đối tượng khác được công ty ủy nhiệm thực

hiện dịch vụ cho một dự án hay nhiều dự án.
+ Công ty đó có tại Việt Nam đại lý môi giới, đại lý hưởng hoa hồng hoặc bất kỳ một
đại lý nào khác.
+ Công ty đó ủy nhiệm cho một đối tượng tại Việt Nam có thẩm quyền ký kết các hợp
đồng đứng tên công ty hoặc không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên Công ty
nhưng có quyền thường xuyên đại diện cho công ty giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ
tại Việt Nam.
Trong trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết có qui định khác về cơ sở thường trú thì thực hiện theo qui định
của Hiệp định đó.
4.2.2 Căn cứ tính thuế thu doanh nghiệp
a) Thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế (tính theo năm dương lịch hoặ cả năm tài chính) bao gồm
thu nhập chịu thuế của hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, kể cả thu nhập chịu
thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài và thu nhập chịu thuế
khác.
Theo qui định tại Điều 7 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập chịu thuế được xác
định như sau:

78

Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế = Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế trong kỳ
tính thuế - Chi phí hợp lý trong kỳ tính thuế + Thu nhập chịu thuế khác trong kỳ tính
thuế
b) Doanh Thu Để Tính Thu Nhập Chịu Thuế
+ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế
Căn cứ điều 3 nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ và
điều 1 Nghị định số 26/2001/NĐ-CP ngày 04/6/2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Luật thuế TNDN, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền

bán hàng, tiền cung ứng dịch vụ (không có thuế giá trị gia tăng) bao gồm cả trợ giá,
phụ thu, phụ trội mà cơ sở sản xuất, kinh doanh được hưởng.
Ví dụ: Trên hóa đơn giá trị gia tăng của doanh nghiệp A bán hàng thể hiện:
- Giá bán: 100.000 đồng.
- Thuế GTGT (10%): 10.000 đồng.
- Giá thanh toán : 110.000 đồng.
- Doanh thu doanh nghiệp A được hưởng để tính thu nhập chịu thuế là 100.000 đồng.
Nếu cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên giá trị
gia tăng, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là giá bên mua thực thanh toán có cả
thuế GTGT.
Cũng ví dụ trên trường hợp doanh nghiệp B thuộc đối tượng tính thuế GTGT
theo phương pháp trực tiếp thì doanh nghiệp B phải sử dụng hóa đơn bán hàng. Trên
hóa đơn bán hàng phản ánh giá thanh toán là 110.000 đồng (giá đã có thuế) thì đây
cũng là doanh thu để tính thu nhập chịu thuế.
+ Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế
Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là thời điểm hàng hóa, dịch
vụ đã được tiêu thụ, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền, cụ thể:
* Đối với hàng hóa thỏa mãn một trong hai điều kiện sau:
- Đã giao hàng hoặc đã chuyển quyền sở hữu về hàng hóa.
- Đã có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn bán hàng.
* Đối với dịch vụ thỏa mãn một trong hai điều kiện sau:
- Khi dịch vụ đã hoàn thành
- Khi có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn bán hàng.
Trường hợp tiền thanh toán dịch vụ mà người cung cấp được hưởng dựa trên tỷ lệ %
hoặc mức độ hoàn thành công việc thì căn cứ vào thời điểm chấp nhận khoản tiền
thanh toán từ phần dịch vụ hoàn thành đó hoặc khi có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn
bán hàng.
c) Doanh thu một số ngành đặc thù được quy định như sau:
+ Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp hoặc trả chậm (quyền sở hữu hàng
hóa chưa chuyển cho người mua) thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là số tiền


79

phải thu khi người mua trả tiền theo thời hạn quy định của hợp đồng. Việc xác định
doanh thu, chi phí đối với hàng hóa mua bán trả góp hoặc trả chậm thực hiện theo
nguyên tắc chi phí phải phù hợp với doanh thu.
Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp hoặc trả chậm, nếu bên mua và bên bán
có thỏa thuận chuyển quyền sở hữu, thì doanh thu của hàng bán tính theo giá bán trả
một lần kể từ khi giao hàng hoặc khi xuất hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn bán hàng,
không bao gồm lãi trả góp hoặc lãi trả chậm. Trường hợp này, lãi trả góp và lãi trả
chậm hạch toán vào thu nhập hoạt động tài chính.
+ Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu, tặng, doanh thu để tính thu nhập
chịu thuế được xác định theo giá bán của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc
tương đương trên thị trường tại thời điểm trao đổi, biếu, tặng.
+ Đối với sản phẩm tự dùng, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là chi phí để sản
xuất ra sản phẩm đó.
+ Đối với gia công hàng hóa, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là tiền thu về gia
công bao gồm cả tiền công, nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và chi phí khác phục vụ
cho việc gia công hàng hóa. Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định khi
bên nhận gia công đã viết hóa đơn, đồng thời với việc chuyển trả hàng hóa đã gia công
cho bên đưa gia công.
+ Trường hợp bán hàng qua đại lý, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định
khi đại lý giao hàng cho người mua hoặc khi:
Bên nhận đại lý chuyển quyền sở hữu cho người mua.
Bên nhận đại lý xuất hóa đơn.
Đồng thời, trong trường hợp này phải có hợp đồng đại lý bằng văn bản giữa bên giao
và bên nhận đại lý, nếu không có hợp đồng thì việc giao hàng cho đại lý sẽ coi như
hoạt động bán hàng thông thường.
+ Đối với hoạt động cho thuê nhà, thuê tài sản, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là
số tiền thu từng kỳ theo hợp đồng. Trường hợp bên thuê trả trước cho nhiều năm thì

doanh thu được tính phân bổ tương ứng theo thời gian thuê từng năm trả trước.
Ví dụ: Một doanh nghiệp A cho doanh nghiệp B thuê nhà trong thời hạn 3 năm. Giả
định hợp đồng cho thuê nhà theo phương thức bên thuê trả trước với số tiền thuê 3 năm
là 150 triệu đồng và hợp đồng có hiệu lực từ 1/1/2001. Như vậy doanh nghiệp A sẽ
được phân bổ doanh thu cho thuê nhà và hạch toán năm 2001 là: 150 tr : 3 = 50 tr
đồng; năm 2002 là 50 tr đồng ; năm 2003 là 50 tr đồng.
+ Doanh thu từ hoạt động cho vay, thu lãi tiền gửi, thu nghiệp vụ cho thuê tài chính là
số lãi phải thu trong kỳ được xác định theo nguyên tắc sau:
=>Tổ chức tín dụng hạch toán số lãi phải thu đối với các khoản nợ trong hạn vào thu
nhập. Đối với số lãi phải thu của các khoản nợ quá hạn không phải hạch toán vào thu
nhập, tổ chức tín dụng theo dõi ngoại bảng để đôn đốc thu, khi thu được thì hạch toán
vào thu nghiệp vụ.

80

=>Số lãi phải thu của các khoản cho vay trong hạn đã hạch toán thu nhập nhưng khách
hàng không thanh toán được đúng hạn, sau 90 ngày khách hàng chưa thanh toán hoặc
chưa đến 90 ngày nhưng khoản vay chuyển sang nợ quá hạn thì Tổ chức tín dụng được
hạch toán giảm thu và theo dõi ngoại bảng để đôn đốc thu, khi thu được thì hạch toán
vào thu nghiệp vụ.
+ Doanh thu vận tải hàng không là toàn bộ số tiền doanh nghiệp vận tải hàng không
được hưởng từ việc vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hóa sau khi đã hoàn thành
quá trình vận chuyển, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Thời
điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là dịch vụ vận chuyển đã hoàn
thành.
+ Doanh thu bán điện là số tiền ghi trên hóa đơn GTGT. Thời điểm xác định doanh thu
để tính thu nhập chịu thuế căn cứ vào ngày cuối cùng ghi chỉ số công tơ trên hóa đơn
tính tiền điện không phân biệt đầu tháng hay cuối tháng. Ngày cuối cùng ghi chỉ số
công tơ thuộc tháng nào thì tính vào doanh thu của tháng đó.
Ví dụ: hóa đơn phát hành tính tiền điện cho chỉ số công tơ tính từ ngày 5/12 đến ngày

5/1 thì doanh thu của hóa đơn này được hạch toán vào tháng 1 năm sau. Nếu ngày ghi
chỉ số công tơ từ ngày 29/1 đến ngày 29/2 thì doanh thu của hóa đơn này được hạch
toán vào tháng 2.
Đối với các dịch vụ có hoạt động xuất hóa đơn, thu tiền tương tự như: nước, bưu điện
thì cũng xác định như trên
+ Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm, doanh thu để tính thu nhập
chịu thuế là số tiền phải thu về phí bảo hiểm gốc, phí đại lý giám định, phí nhận tái bảo
hiểm, thu hoa hồng tái bảo hiểm và các khoản thu khác.
+Trong trường hợp cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có doanh thu bằng ngoại tệ thì
phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát
sinh doanh thu ngoại tệ. Những ngoại tệ mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không
công bố tỷ giá thì thống nhất quy đổi thông qua đồng đô la Mỹ. Tỷ giá quy đổi ngoại tệ
ra đồng Việt Nam thực hiện theo quy định tại Thông tư số 77/1998/TT-BTC ngày
6/6/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn tỷ giá quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam sử
dụng trong hạch toán kế toán ở doanh nghiệp.
4.2.3 Các khoản thu nhập chịu thuế khác
a). Chênh lệch về mua, bán chứng khóan.
b) Thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản:
+ Thu nhập về cho thuê tài sản.
+ Thu nhập cho sử dụng hoặc quyền sử dụng sở hữu trí tuệ.
+ Thu nhập khác về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
c). Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản, thanh lý tài sản:

×