Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đa dạng sinh học - part 10 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.68 KB, 14 trang )

đất hay theo cấu tạo địa chất. Dải quanh co của hệ thực vật ven sông chay
song song các dòng suối là ví dụ điển hình cho loại hành lang này.
Hành lang sót lại (remnant corridors): là sản phẩm rõ nét nhất của
việc nhiễu loạn vùng ven. Các dải thực vật ở các vùng dốc, vách đá, hoặc
vùng đất ướt là phần thừa lại khi đất được khai hoang cho sản xuất nông
nghiệp hay các mục đích khác. Kích thước và hình dáng của hầu hết các
hành lang sót lại rất khác nhau. Các hành lang sót lại thường chứa các tập
hợp cuối cùng của các loài thực, động vật bản địa.
Hành lang trồng (introduced corridors): hầu hết loại hành lang này
được trồng từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX. Trong thời gian này, các chủ
đất trồng các hành lang cây quanh các khu rừng hay đồng cỏ của mình,
một số trong các hành lang này vẫn còn tồn tại cho đến nay và được đánh
giá là cảnh quan có giá trị quốc gia. Trong các vùng cảnh quan nông
nghiệp, loại hành lang kiểu này trở nên nơi cư trú quan trọng cho nhiều
loài động vật hoang dã.
Hành lang xáo động (disturbance corridors): được hình thành do
hoạt động của việc quản lý đất, làm xáo động hệ thực vật trong một đường
hay một dải đất. Kiểu hành lang này được tạo ra để duy trì hệ thực vật
trong một giai đoạn diễn thế mong muốn. Chúng có thể đủ rộng để thiết
lập một hàng rào đối với một số loài động vật hoang dã, tách quần thể
thành 2 quần thể biến thái. Hành lang này thường là nơi cư trú quan trọng
đối với các loài bản địa đòi hỏi nơi cư trú ở giai đoạn diễn thế sớm.
Hành lang tái sinh (regenerated corridors): là kết quả của sự tái
phát triển của thực vật ở dải đất bị xáo động. Tái phát triển có thể là sản
phẩm của diễn thế tự nhiên hay do nuôi trồng. Kích thước và hình dáng
của hành lang này phụ thuộc vào dải đất đã bị xáo động trước đó. Thực vật
ở hành lang loại này phổ biến là các loài cỏ dại trong các giai đoạn đầu
của quá trình diễn thế. Trong các nơi cư trú bị cắt đoạn, hành lang tái sinh
là nơi cư trú quan trọng cho các loài thú nhỏ và các loài chim hót.
* Một số nguyên lý thường được áp dụng khi thiết kế và bảo tồn
hành lang:


Hành lang liên tục
tốt hơn so với hành lang bị
cắt đoạn: các hành lang tạo
ra sự thuận tiện cho sự di
100
(Adam and Dove, 1989)
(Adam and Dove, 1989)
chuyển của động vật qua các vùng cảnh quan. Những ngắt quãng trong
hành lang sẽ làm cản trở việc di chuyển cua động vật, đặc biệt đối với
những loài sống ở bên trong hành lang. Khả năng của cá thể khi vượt qua
các ngắt đoạn trong hành lang phụ thuộc vào mức độ chịu đựng của chúng
đối với các điều kiện biên, phụ thuộc vào đặc tính di chuyển và phát tán.
Hành lang rộng thì tốt hơn hành lang hẹp: hành lang rộng giảm
thiểu được những hiệu ứng
biên đối với cá thể và quần
thể khi di chuyển trong
đường biên. Tuy nhiên, các
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng,
các hành lang rộng quá cũng
có thể gây hại cho động vật
do chúng phải tốn nhiều thời
gian khi vượt qua đường biên và điều đó có thể gia tăng tỷ lệ tử vong nói
chung.
Nên duy trì và phục hồi các liên kết tự nhiên: Duy trì cac mối liên
kết tự nhiên giữa các vùng sinh cảnh là cần thiết dể duy trì tính đa dạng
loài và năng lực của quần thể. Ngăn chặn sự cắt đoạn các hành lang tự
nhiên ít tốn kém hơn là phục hồi chúng.
Các liên kết nhân tạo nên có nghiên cứu kỹ càng: các quần thể của
một loài sống biệt lập nhau trong thời gian dài thường phát triển các các
thích ứng di truyền đặc biệt đối với môi trường sống của chúng. Việc kết

nối các quần thể như thế lại với nhau có thể làm mất đi những thích ứng
đó.
Hai hay nhiều các
hành lang kết nối giữa hai
vùng biệt lập thì tốt hơn là
một hành lang: nếu có nhiều
hành lang cho động vật di
chuyển từ một vùng này đến
vùng khác thì chúng sẽ dễ
dàng thực hiện cuộc hành trình. Động vật có thể không nhận ra hành lang
như là đường dẫn đến đích, chúng chỉ nhận ra đó như là một nơi cư trú
liên tục và khi ở trong hành lang, sự di chuyển của chúng bị giới hạn theo
101
đường thẳng. Thường thì tình cờ chúng đi từ đầu này tới đầu kia và càng
nhiều cơ hội như vậy thì việc di chuyển của chúng sẽ dễ xảy ra hơn.
5.2.3.3. Giảm thiểu các tác động của vùng biên và những tác động
gây chia cắt
Nói chung mọi người đều nhất trí rằng cần thiết kế các khu bảo tồn
thế nào để giảm thiểu những nguy hại do hiệu ứng vùng biên. Những khu
bảo tồn có hình tròn sẽ có tỷ lệ vùng biên nhỏ nhất, và vùng trung tâm của
một khu bảo tồn như thế sẽ cách xa biên hơn là so với các khu bảo tồn có
hình dạng khác. Những khu bảo tồn có hình chữ nhật và dài là có nhiều
biên nhất và mọi điểm trong khu bảo tồn đều gần với biên. Áp dụng những
lập luận như trên đối với các khu bảo tồn có dạng tứ giác thì sẽ thấy với
cùng diện tích, một khu bảo tồn hình vuông sẽ tốt hơn một khu bảo tồn
hình chữ nhật.
Tuy vậy, hầu hết các khu bảo tồn đều có hình dạng không đều vì
thông thường các khu đất có được là do hoàn cảnh nhiều hơn là do những
tính toán về hình học.
Nên tránh được càng nhiều càng tốt những chia cắt trong nội bộ

các khu bảo tồn do làm đường, canh tác, đốn gỗ và các hoạt động khác của
con người bởi vì sự chia cắt như vậy gây ra rất nhiều tác động xấu đến loài
và quần thể. Các áp lực dẫn đến những chia cắt nêu trên là rất mạnh bởi vì
các khu bảo tồn thường là những mảnh đất còn lại duy nhất cho các hoạt
động phát triển mới như canh tác nông nghiệp, xây đập và lập các khu dân
cư. Các nhà qui hoạch thường lập hệ thống đường giao thông và các công
trình cơ sở hạ tầng khác trong các khu bảo tồn vì họ sẽ ít dụng phải những
chống đối về chính trị hơn là khi chọn địa điểm dự án tại các khu dân cư.
Hiện đã có những chiến lược nhằm gắn kết các khu bảo tồn nhỏ lại
thành những khu bảo tồn lớn. Các khu bảo tồn thường hay gắn liền với các
khu vực được quản lý để khai thác, ví dụ như rừng khai thác gỗ, đất chăn
thả hay đất canh tác.
Bất cứ nơi nào có thể đều nên có trọn vẹn một hệ sinh thái trong
các khu bảo tồn, ví dụ như một lưu vực sông, hồ hay một dãy núi, bởi vì
hệ sinh thái là đơn vị quản lý thích hợp nhất. Một bộ phận của hệ sinh thái
bị hủy hoại do không được bảo vệ sẽ đe dọa đến sức sống của toàn bộ hệ
sinh thái. Việc kiểm soát toàn bộ hệ sinh thái sẽ cho phép những người
102
quản lý gìn giữ, bảo vệ một cách hiệu quả hơn khi phải đối phó với những
ảnh hưởng có tính hủy hoại từ bên ngoài.
5.2.4. Quản lý các khu bảo tồn
Một khi đã được thành lập một cách hợp pháp thì khu bảo tồn phải
được quản lý một cách có hiệu quả nhằm duy trì đa dạng sinh học. Thế
giới đã có rất nhiều những “vườn quốc gia giấy” được thiết lập bởi những
qui định của chính phủ nhưng lại không được quản lý một cách có hiệu
quả trên thực tế. Tại các vườn Quốc gia này, các loài đã bị thất thoát dần
có lúc với tốc độ lớn trong khi chất lượng nơi cư trú cũng bị xuống cấp. Ở
một số nước, con người đã không ngần ngại triển khai sản xuất nông
nghiệp, chặt phá hay khai khoáng ở một số khu bảo tồn vì mọi người đều
có quyền sở hữu đất đai của nhà nước và “bất cứ ai” cũng có thể lấy

những gì họ muốn và “chẳng ai” muốn can thiệp vào chuyện này. Điểm
mấu chốt của các vườn Quốc gia này là phải tăng cường quản lý nhằm
ngăn chặn sự xuống cấp.
Một thực tế nữa là việc quản lý tốt nhất đôi khi lại không cần phải
có hoạt động gì vì các hoạt động quản lý có lúc không hiệu quả hoặc thậm
chí có hại. Ví dụ như việc quản lý tích cực để tăng thêm sự giàu có của các
loài săn bắn thể thao như hươu chẳng hạn thường phải tiến hành tiêu diệt
các loài săn mồi hàng đầu như chó sói và sư tử. Việc loại bỏ các loài săn
mồi có thể dẫn đến sự bùng nổ các quần thể thú săn bắn (và vô tình có cả
các loài gặm nhấm). Kết quả là có quá nhiều loài ăn cỏ, suy giảm chất
lượng môi trường nơi cư trú và sự thất thoát các quần thể động vật và thực
vật. Việc các nhà quản lý vườn quá sốt sắng trong việc dọn dẹp, thu gom
cây cối bị đổ và phát quang bờ bụi để cải tiến bộ mặt cảnh quan của vườn
có thể vô tình làm mất những nơi làm tổ, nguồn thức ăn của cả một tập
hợp sinh vật ăn gỗ mục, và nơi cư trú về mùa đông quan trọng của một
số loài nhất định.
5.2.4.1. Các mối đe dọa đối với các vườn Quốc gia
Năm 1990, Trung tâm quan trắc bảo tồn thế giới (WCMC) và
UNESCO đã tiến hành khảo sát 89 vị trí được coi là di sản của thế giới để
xem xét các vấn đề về quản lý ở đó. Nhìn chung, những mối đe dọa đối
với các khu bảo tồn ở Nam Mỹ là lớn nhất và ở Châu Âu là ít nhất. Vấn đề
các loài thực vật ngoại lai nghiêm trọng nhất ở Châu Úc, Australia, New
Zealand và các đảo ở Thái Bình Dương trong khi việc khai thác bất hợp lý
các loài hoang dại, nạn cháy rừng, chăn thả và canh tác nông nghiệp là
103
những mối đe dọa lớn ở cả Nam Mỹ và Châu Phi. Quản lý chưa đúng mức
các vườn là vấn đề thường xảy ra đối với các nước đang phát triển ở Châu
Phi, Châu Á và Nam Mỹ. Những mối đe dọa lớn nhất đối với các vườn
quốc gia ở các nước công nghiệp phát triển có liên quan đến các hoạt động
kinh tế như khai khoáng, chặt gỗ, nông nghiệp và các dự án thủy lợi.

Việc đánh giá mối đe dọa đối với các vườn không có nghĩa là phải
cố để loại trừ những mối đe dọa này, bởi vì trong nhiều trường hợp hầu
như không thể nào làm như vậy được. Ở những nơi có mối đe dọa do các
loài ngoại lai đối với các loài bản địa thì cần phải áp dụng các biện pháp
loại bỏ các loài ngoại lai đó càng nhanh càng tốt hoặc ít nhất phải làm
giảm tiềm năng phát triển của chúng. Những loài được biết là có khuynh
hướng gây hại cần phải được diệt bỏ ngay từ khi chúng mới bắt đầu phát
triển và khi mật độ của quần thể còn thấp. Một khi những loài ngoại lai đã
sinh sống và phát triển vững chắc ở một khu vực thì việc tiêu diệt chúng
có thể sẽ rất khó khăn (nếu không nói là không làm được).
5.2.4.2. Quản lý nơi cư trú
Một khu bảo tồn nhiều khi phải được quản lý rất nghiêm ngặt để
bảo đảm gìn giữ các nơi cư trú nguyên thủy. Nhiều loài chỉ xuất hiện ở
một nơi cư trú hoặc vào một giai đoạn diễn thế nhất định nào đó. Khi một
vùng đất được chọn làm nơi bảo tồn, các hình thức nhiễu động hoặc các
hoạt động của con người có thể gây tác động lớn tới mức làm cho nhiều
loài nguyên thủy sống ở đây đã không thể tồn tại được. Các hoạt động tự
nhiên gồm hỏa hoạn, chăn thả quá mức, là những yếu tố quan trọng
quyết định sự tồn tại của một loài quí hiếm. Trong các vườn quốc gia nhỏ,
có thể không có đầy đủ các giai đoạn của quá trình diễn thế và nhiều loài
có thể bị mất đi vì chính lý do này. Ví dụ, tại một khu bảo tồn biệt lập có
các loài cây già là chủ yếu thì những loài cây đặc trưng cho các giai đoạn
diễn thế sớm như cỏ và cây bụi có thể không có ở đây. Các nhà quản lý
vườn Quốc gia đôi khi cần phải chủ động quản lý những địa điểm nhằm
bảo đảm cho tất cả các giai đoạn của diễn thế đều xảy ra tại đây. Cách phổ
biến thường làm là thỉnh thoảng gây cháy cục bộ, có kiểm soát tại những
khu vực đồng cỏ, cây bụi và những cánh rừng để khởi động lại quá trình
diễn thế.
Quản lý nguồn lợi thủy sản ở các vùng đất ngập nước là một vấn
đề cực kỳ quan trọng. Việc duy trì các vùng đất ngập nước là cần thiết để

bảo tồn quần thể các loài chim nước, cá, lưỡng cư, thực vật thủy sinh và
104
nhiều loài khác. Tuy nhiên các khu bảo tồn đất ngập nước sẽ là đối tượng
tranh chấp về nguồn nước đối với các dự án tưới tiêu, các công trình
chống lũ và các đập thủy điện tại những vùng đồng bằng trũng. Các khu
đất ngập nước thường kết nối với nhau, do đó một quyết định có ảnh
hưởng đến mực nước và chất lượng nước ở nơi này có thể gây ảnh hưởng
đến nơi khác.
Khi quản lý các vườn cần cố gắng bảo tồn và duy trì các nguồn vật
chất quan trọng mà nhiều loài phải phụ thuộc vào. Nếu như không thể giữ
các nguồn này nguyên vẹn thì cần phải cố gắng xây dựng lại chúng. Trong
mọi trường hợp, cần phải tạo được sự cân bằng giữa việc hình thành các
khu bảo tồn thiên nhiên cách biệt khỏi những tác động của con người với
việc tạo ra những khu vườn bán thiên nhiên trong đó động thực vật phụ
thuộc vào con người.
5.2.4.3. Con người và việc quản lý vườn Quốc gia
Việc con người sử dụng các cảnh quan là một thực tế mà chúng ta
phải tính đến khu quy hoạch thiết kế khu bảo tồn. Con người đã là một bộ
phận của tất cả các hệ sinh thái trên thế giới từ hàng ngàn năm nay, và
việc loại bỏ con người ra khỏi các khu bảo tồn thiên nhiên có thể sẽ dẫn
đến những hậu quả lớn. Tuy nhiên, việc đưa người địa phương ra khỏi các
khu bảo tồn có thể lại là sự lựa chọn duy nhất khi mà tài nguyên thiên
nhiên đang bị khai thác tới mức sự toàn vẹn của các quần xã sinh vật đang
bị đe dọa. Tốt hơn hết là tìm ra được những giải pháp trung hoà trước khi
tình hình trên xảy ra.
Trong bất kỳ một kế hoạch quản lý khu bảo tồn nào thì việc sử
dụng khu bảo tồn của người dân địa phương và du khách cần phải là nội
dung trung tâm, kể cả ở quốc gia phát triển lẫn quốc gia đang phát triển.
Những người dân từ ngàn đời nay đã sử dụng các sản phẩm trong khu bảo
tồn, nay đột nhiên không được phép vào trong đó nữa sẽ phải chịu đựng sự

mất đi quyền được tiếp cận các nguồn tài nguyên cơ bản cần cho sự sinh
tồn của họ. Vì thế hiển nhiên họ sẽ giận dữ và những người dân trong
hoàn cảnh như vậy sẽ không thể là người ủng hộ mạnh mẽ cho công tác
bảo tồn. Nhiều khu bảo tồn phát triển hay bị hủy hoại là tuỳ thuộc vào
mức độ ủng hộ khai thác hay thù địch của những người sử dụng các khu
vực này. Nếu nhân dân địa phương quán triệt được mục đích của khu bảo
tồn và nếu mọi người đều nhất trí với các mục tiêu và quy định của các
khu bảo tồn thì các cộng đồng sẽ được giữ lại trong vườn như bình
105
thường. Trường hợp lý tưởng nhất là những người dân địa phương tham
gia vào quy hoạch và quản lý khu bảo tồn, được đào tạo và tuyển vào làm
trong ban quản lý và được hưởng lợi từ việc bảo tồn đa dạng sinh học
cũng như hoạt động bảo vệ trong khu bảo tồn. Ngược lại, nếu quan hệ
giữa dân địa phương và chính phủ vốn đã không tốt và không tin nhau,
hoặc nếu mục đích của khu bảo tồn không được giải thích thỏa đáng thì
dân địa phương có thể không chấp nhận việc thành lập cũng như tuân thủ
các quy định của vườn. Trong trường hợp này, người dân địa phương sẽ
gây xung đột với những người trong ban quản lý của vườn.
Ngày nay người ta ngày càng nhận ra rằng các chiến lược quản lý
và bảo tồn hầu hết đều thiếu yếu tố cực kỳ quan trọng là sự tham gia của
người dân địa phương. Các chiến lược theo lối “từ trên xuống” trong đó
chính phủ cố gắng thực thi các kế hoạch bảo tồn cần được kết hợp với các
chương trình theo lối “từ dưới lên” trong đó các làng xã và các cộng đồng
địa phương khác có khả năng tự xây dựng và thực thi các mục tiêu phát
triển của riêng mình.
Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc
(UNESCO) đã khởi xướng một cách tiếp cận như thế với chương trình
Con người và Sinh quyển (MAB). Chương trình này đã thành lập một số
các khu bảo tồn sinh quyển trên khắp thế giới nhằm cố gắng đưa các hoạt
động của con người, các hoạt động nghiên cứu và bảo vệ môi trường vào

cùng một địa điểm. Khu bảo tồn sinh quyển bao gồm một khu trung tâm
trong đó các quần xã và các hệ sinh thái được bảo vệ nghiêm ngặt; xung
quanh nó là vùng đệm, trong đó các hoạt động truyền thống của người dân
như thu hái các loại dược liệu, kiếm gỗ củi nhỏ được giám sát và những
hoạt động nghiên cứu không có tính hủy hoại cũng được tiến hành. Xung
quanh vùng đệm là vùng chuyển tiếp trong đó một số hoạt động phát triển
có tính bền vững như canh tác quy mô nhỏ, một số hoạt động khai thác tài
nguyên thiên nhiên như khai thác gỗ có lựa chọn và các thử nghiệm khoa
học được phép tiến hành. Chiến lược tổng quát về một vùng trung tâm
được bao bọc xung quanh bởi vùng đệm và vùng chuyển tiếp có thể có
một số hiệu quả đáng mong ước. Thứ nhất, người dân địa phương được
khuyến khích tham gia thực hiện các mục tiêu của khu bảo tồn. Thứ hai,
một số đặc điểm về cảnh quan do con người tạo ra có thể được giữ gìn. Và
thứ ba, vùng đệm có thể tạo điều kiện cho động vật phát tán và chuyển
dịch gen giữa vùng trung tâm được bảo vệ nghiêm ngặt với các vùng
chuyển tiếp có đông dân cư và không được bảo vệ.
106
5.2.5. Bảo tồn bên ngoài các khu bảo tồn
Khoảng 90% đất đai trên trái đất là nằm ngoài diện tích các khu
bảo tồn. Đa phần các đất đai nằm ngoài các khu bảo tồn vẫn chưa bị con
người sử dụng triệt để và vẫn là nơi sinh sống nguyên thủy của sinh giới.
Do phần lớn diện tích đất đai ở hầu hết các nước là không thuộc khu bảo
tồn nên rất nhiều loài quý hiếm vẫn xuất hiện bên ngoài các khu bảo tồn.
Thành tố có tính quyết định trong các chiến lược bảo tồn là phải
bảo tồn đa dạng sinh học bên trong cũng như bên ngoài các khu bảo tồn.
Mối nguy hiểm của việc chỉ dựa vào các vườn hay các khu bảo tồn là
chiến lược này có thể tạo nên một tâm lý “vây hãm” tức là các loài hay
quần xã nằm trong vườn thì được bảo vệ nghiêm ngặt trong khi chúng lại
bị khai thác tự do phía ngoài khu bảo tồn. Tuy nhiên, nếu các khu vực nằm
xung quanh vườn bị suy thoái thì đa dạng sinh học bên trong vườn cũng sẽ

bị suy giảm trong đó sự mất loài sẽ diễn ra nghiêm trọng nhất là trong các
vườn có diện tích nhỏ. Sự suy giảm này xảy ra vì nhiều loài cần phải di
chuyển ra khỏi ranh giới các khu vườn để kiếm thức ăn và các vật chất cần
thiết khác mà trong vườn không có nhưng đã không thực hiện được. Đồng
thời, số lượng cá thể của một loài trong phạm vi ranh giới vườn có thể
thấp hơn kích thước tối thiểu có thể sống được của quần thể đó. Như
Western (1989) đã nêu: ”Nếu chúng ta không thể bảo vệ thiên nhiên bên
ngoài các khu bảo tồn thì thiên nhiên cũng chẳng tồn tại bao nhiêu bên
trong các khu đó”
5.3. Các giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học
5.3.1. Bảo tồn nội vi (in situ; on-site preservation)
Chiến lược tốt nhất nhằm bảo tồn đa dạng sinh học là bảo tồn các
quần xã và quần thể ngay trong điều kiện tự nhiên, một phương thức thường
được nói đến là bảo tồn nguyên vị hay bảo tồn tại chổ. Chỉ trong tự nhiên, các
loài mới có khả năng tiếp tục quá trình thích nghi tiến hóa đối với môi trường
đang thay đổi trong các quần xã tự nhiên của chúng.
5.3.2. Bảo tồn ngoại vi (ex-situ; off-site preservation)
Tuy nhiên, đối với nhiều loài hiếm thì bảo tồn nguyên vị chưa phải là
giải pháp khả thi trong điều kiện những áp lực của con người ngày càng gia
tăng. Nếu quần thể còn lại là quá nhỏ để tiếp tục tồn tại, hoặc nếu tất cả
những cá thể còn lại được tìm thấy ở ngoài khu bảo vệ thì bảo tồn nguyên vị
107
sẽ không có hiệu quả. Trong những trường hợp này, giải pháp duy nhất để
ngăn cho loài khỏi bị tuyệt chủng là bảo tồn các cá thể trong những điều kiện
nhân tạo. Chiến lược này được gọi là bảo tồn ngoại vi hay bảo tồn chuyển vị.
Thực tế có một số loài đã bị tuyệt chủng ngoài tự nhiên song vẫn đang tồn tại
trong các bầy đàn nhân nuôi, chứ không còn tìm thấy trong dạng hoang dại
nữa.
Các điều kiện để bảo tồn chuyển vị động vật bao gồm vườn thú,
trang trại nuôi động vật, thủy cung và các chương trình nhân giống động

vật. Thực vật thì được bảo tồn trong các vườn thực vật, vườn cây gỗ và
các ngân hàng hạt giống.
Bảo tồn chuyển vị là một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng
hợp nhằm bảo vệ các loài đang có nguy cơ tuyệt diệt. Bảo tồn chuyển vị
và bảo tồn nguyên vị là những cách tiếp cận có tính bổ sung cho nhau.
Những cá thể từ các quần thể được bảo tồn chuyển vị sẽ được thả định kỳ
ra ngoài thiên nhiên để tăng cường cho các quần thể được bảo tồn nguyên
vị. Nghiên cứu trên các quần thể nuôi nhốt có thể cung cấp cho ta những
hiểu biết về đặc tính sinh học của loài và gợi ra những chiến lược bảo tồn
mới cho các quần thể được bảo tồn nguyên vị. Các quần thể chuyển vị mà
có thể tự duy trì quần thể thì sẽ làm giảm bớt nhu cầu phải bắt các cá thể
từ ngoài thiên nhiên để phục vụ mục đích trưng bày hoặc nghiên cứu. Cuối
cùng, việc những con vật được nuôi nhốt và trưng bày sẽ góp phần giáo dục
quần chúng về sự cần thiết phải bảo tồn loài cũng như bảo vệ các thành viên
khác của loài đó ngoài tự nhiên. Ngược lại bảo tồn nguyên vị là không thể
thiếu đối với sự sống còn của những loài không thể nuôi nhốt, cũng như để
tiếp tục có các loài mới trưng bày trong các vườn thú, thủy cung hay các
vườn thực vật.
5.3.2.1. Vườn thú
Các vườn thú, cùng với các trường đại học, các Cục, Vụ phụ trách
về sinh vật hoang dã của Chính phủ và các tổ chức bảo tồn hiện đang nuôi
giữ trên 700.000 cá thể, đại diện cho 3.000 loài thú, chim, bò sát và lưỡng
cư. Các vườn thú hầu như chỉ trưng bày những loài thú lớn đầy quyến rũ
như gấu trúc, hươu cao cổ, voi, trong khi đó có xu hướng bỏ qua một số
lượng không nhỏ các loài côn trùng và động vật không xương sống khác
mà nhóm này tạo thành một bộ phận chủ yếu của động vật giới trên trái
đất.
108
Mục tiêu hiện nay của hầu hết các vườn thú lớn là lập được quần
thể nuôi của các loài động vật hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Chỉ

khoảng 10% trong số 247 loài thú hiếm được nuôi giữ trong các vườn thú
khắp thế giới là có khả năng tự duy trì quần thể ở kích thước đủ để bảo tồn
tính biến dị di truyền của chúng. Để khắc phục tình trạng này, các vườn
thú và những tổ chức bảo tồn có liên quan đã bắt tay vào xây dựng cơ sở
vật chất và triển khai các công nghệ cần thiết để tạo lập được các bầy đàn
có khả năng sinh sản của các loài quí hiếm và đang có nguy cơ tuyệt diệt,
cũng như xây dựng chương trình và phương pháp mới nhằm tái lập các
loài ngoài tự nhiên.
Một loạt các kỹ thuật cũng đang được nghiên cứu và áp dụng nhằm
làm tăng tỷ lệ sinh sản của các loài động vật nuôi. Các kỹ thuật này gồm
ấp và vú nuôi, tức là con mẹ của loài phổ biến nuôi dưỡng con cháu của
loài quí hiếm; thụ tinh nhân tạo khi con trưởng thành tỏ ra không muốn
thụ tinh hoặc chúng phải sống trong những điều kiện khác biệt, ấp trứng
nhân tạo trong các điều kiện tốt nhất để trứng nở và cấy phôi tức là cấy
trứng đã được thụ tinh của loài quí hiếm vào tử cung của con mẹ thay thế
thuộc loài phổ biến.
5.3.2.2. Bể nuôi
Để ngăn chặn các hiểm họa đối với các loài thủy sinh, những
chuyên gia về cá, thú biển và san hô làm việc tại các thủy cung hay các bể
nuôi đã hợp tác ngày càng chặt chẽ với các đồng nghiệp tại các Viện
nghiên cứu biển, các Cục, Vụ thủy sản của chính phủ và các tổ chức bảo
tồn để xây dựng các chương trình bảo tồn những loài và quần xã tự nhiên
đang được quan tâm. Có khoảng 580.000 cá thể của các loài cá đang được
nuôi giữ trong các bể nuôi mà hầu hết các loài đó là được thu thập ngoài
tự nhiên. Hiện đang có nhiều nổ lực nhằm phát triển các kỹ thuật gây
giống để có thể duy trì các loài quí hiếm trong bể nuôi, đôi khi có thể thả
chúng ra tự nhiên và do đó không phải bắt giữ những mẫu vật hoang dã.
Nhiều kỹ thuật được sử dụng trong việc gây giống cá có nguồn gốc từ
những kỹ thuật do các nhà nghiên cứu về cá tìm ra nhằm tạo ra những đàn
cá lớn có giá trị thương mại như cá hồi, cá vược, Một số kỹ thuật khác

được khám phá từ những bể nuôi cá cảnh vì những người bán cá cảnh
muốn nhân giống nhiều loại cá vùng nhiệt đới để bán.
5.3.2.3. Vườn thực vật và vườn ươm cây
109
Vườn thực vật là nơi lưu giữ các quần thể thực vật dễ dàng hơn so
với động vật. Thực vật đòi hỏi sự chăm sóc ít hơn là động vật; nhu cầu về
nơi ở của chúng dễ cung cấp; không cần thiết phải nhốt lại; các cá thể có
thể dễ dàng nhân giống hơn; hầu hết là lưỡng tính, trong đó có khoảng một
nửa thành phần loài cần phải được lưu giữ về đa dạng di truyền. Ngoài ra,
hạt giống của nhiều loại cây trong giai đoạn nghỉ dễ bảo vệ. Từ những lý
do đó, các vườn thực vật là công cụ thật sự quan trọng trong việc lưu giữ
đa dạng loài và di truyền.
Hiện nay 1.500 vườn thực vật trên thế giới đã có các bộ sưu tập
chính của các loài thực vật, thể hiện một nổ lực lớn lao trong việc bảo tồn
thực vật. Các vườn thực vật trên thế giới hiện nay đang trồng ít nhất là
35.000 loài thực vật, chiếm 15% thực vật giới toàn cầu và có thể khoảng
gấp đôi số lượng đó là đang được trồng trong các nhà kính, vườn tư nhân
hay các loại vườn khác. Vườn thực vật lớn nhất thế giới Vườn Thực vật
Hoàng gia Anh Quốc tại Kew, có khoảng 25.000 loài cây đang được gieo
trồng.
Về đặc trưng phân loại, khả năng cung cấp của các vườn thực vật
là cao hơn. Có khoảng 72 trong số 110 loài thông được biết được thu thập
tại California, một vườn thực vật ở Nam Phi chiếm khoảng 1/4 số loài của
cả nước, một vườn ở California chiếm 1/3 số loài đặc hữu ở nước Mỹ.
Trong đó có trường hợp một loài cây đã bị tuyệt chủng ở ngoài tự nhiên
(Clarkia franciscana) đã được bảo tồn trong vườn thực vật và đã được tái
du nhập vào thành loài đặc hữu sống ở California. Chỉ có 300 đến 400 vườn
thực vật trên thế giới có thể lưu giữ các mẫu bảo tồn chủ yếu và chỉ 250
vườn trong số đó được sử dụng làm ngân hàng lưu giữ hạt giống, trong một
đánh giá cho rằng các vườn thực vật có thể cứu được các quần thể của

20.000 loài thực vật tuyệt chủng.
Vai trò quan trọng của các vườn thực vật trong việc bảo tồn đa
dạng sinh học đã được minh họa bởi việc mở rộng mạng lưới của 19 vườn
thực vật ở Mỹ với Trung tâm bảo tồn thực vật (CPC). CPC ước tính có
3.000 taxon đặc hữu ở Mỹ bị đe dọa tuyệt chủng, trong đó hơn 300 loài
đang được nuôi cấy ở mạng lưới các vườn.
Sự đóng góp của các vườn thực vật đối với công tác bảo tồn loài
mở rộng ra đối với các loài đang bị đe dọa ngoài hoang dã. Các vườn thực
vật cung cấp cây cho nghiên cứu và nuôi trồng. Chúng cũng là nguồn tài
110
nguyên quan trọng cho việc giáo dục. Mỗi năm ước tính có khoảng 150
triệu người đến thăm các vườn thực vật.
Vai trò quan trọng của các vườn thực vật có thể dễ dàng được phát
triển. Sự mất cân đối về vị trí địa lý của các vườn thực vật hiện nay, có thể
được ngăn ngừa nếu như các vườn được thiết lập ở các nước nhiệt đới.
Hiện nay các nước nhiệt đới chỉ có khoảng 230 trong số 1.500 vườn thực
vật trên toàn thế giới. Trong khi hơn 100 khu vườn được thành lập và có
kế hoạch thành lập trong thập kỷ qua và nhiều trong số đó ở các vùng
nhiệt đới, thì vẫn còn sự mất cân đối địa lý, đặc biệt là khi xem xét về độ
phong phú loài ở các vùng nhiệt đới.
Với các nghiên cứu sâu hơn về các công nghệ bảo quản và với các
dữ liệu tốt hơn về nơi thu thập mẫu vật và lịch sử sinh sản của chúng, các
vườn thực vật có thể trở thành nơi bảo quản tính di truyền quan trọng. Ban
thư ký của Hiệp hội Bảo tồn thực vật của IUCN hiện nay đang phát triển
cơ sở dữ liệu máy tính về những sự có mặt của các loài ở các vườn thực
vật để giúp các vườn thu thập các loài còn thiếu. Những nỗ lực của các
vườn thực vật trong việc bảo tồn nguồn giống đang được phối hợp với
chiến lược bảo tồn vườn thực vật của IUCN. Trong việc phối hợp với Ban
quốc tề về Tài nguyên di truyền thực vật (IBPGR, International Board for
Genetic Resources), IUCN cũng đã cùng phối hợp để đưa ra hướng dẫn về

việc thu thập nguồn giống đối với các loài hoang dã.
Cho đến nay, các vườn thực vật đã không sử dụng hết lợi ích của
việc lưu giữ các loài đang bị đe dọa và bảo tồn nguồn gen. Mặc dù chứa
một phần lớn khu hệ thực vật thế giới, các vườn có truyền thống không
hợp tác về những tri thức bản địa. Nhờ vào những nổ lực của các tổ chức
và cá nhân, vai trò của vườn trong việc bảo tồn đang được phát triển
nhanh chóng.
5.3.2.4. Ngân hàng hạt giống - gen
Ngài việc trồng cây, các vườn thực vật và viện nghiên cứu đã xây
dựng bộ sưu tập về hạt, như là các ngân hàng hạt giống, mà những hạt này
đã được thu lượm từ các cây hoang dại và cây trồng. Hạt của hầu hết các
loại cây đều có thể được lưu giữ trong điều kiện lạnh và khô trong thời
gian dài và sau đó cho nẩy mầm. Khả năng tồn tại lâu dài của hạt đặc biệt
có giá trị cho việc bảo tồn chuyển vị bởi vì nó cho phép bảo tồn hạt của
nhiều loài quý hiếm bằng kỹ thuật đông lạnh và lưu giữ trong một không
gian nhỏ, chi phí thấp và không cần giám sát nhiều. Hiện nay có hơn 50
111
ngân hàng hạt giống trên thế giới, trong đó có nhiều ngân hàng đặt tại các
nước đang phát triển và được sự điều phối tích cực của Nhóm Tư vấn về
Nghiên cứu nông nghiệp Quốc tế (CGIAR, Consulative Group on
International Agricultural Research).
5.3.3. Kiểm soát ô nhiễm môi trường
5.3.4. Phát triển bền vững
Phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu đầu tiên của cả phát triển
kinh tế và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra cũng là mục tiêu cho
quy hoạch phát triển và quy hoạch quản lý tài nguyên, nó cũng là mục tiêu
của các tiến trình và các phương pháp thực hiện. Phát triển bền vững đòi
hỏi nỗ lực của cả các chương trình ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, quy
hoạch và quản lý bền vững cần phải tập trung cao độ cho các mục tiêu dài
hạn. Phát triển bền vững là sự phát triển mà trong đó các giá trị kinh tế,

môi trường và xã hội luôn luôn tương tác với nhau trong quá trình quy
hoạch; phân bố lợi nhuận công bằng giữa các tầng lớp trong xã hội và
khẳng định các cơ hội cho sự phát triển kế tiếp, duy trì một cách liên tục
cho các thế hệ mai sau.
Nếu phát triển kinh tế hay quản lý tài nguyên được coi là bền
vững, thì sự đánh giá các kế hoạch hành động lựa chọn cần phải được
thông qua sự tương tác các giá trị xã hội, kinh tế và môi trường. Thách
thức lớn nhất của chúng ta là xác định sự cân bằng tối ưu giữa ba giá trị
này. Sự tương tác của ba giá trị này khác với sự bền vững của các chiến
lược quản lý tài nguyên hoặc là phát triển kinh tế riêng biệt.
Phát triển bền vững đòi hỏi sự công bằng. Bền vững được đặc
trưng bởi sự phân phối quyền lợi và các cơ hội một cách công bằng giữa
các tầng lớp xã hội, giới và các thế hệ. Khi sự bền vững được xác định về
các hệ giá trị tương tác và tính công bằng giữa các thế hệ, nó trở nên bền
vững hơn bao gồm các vấn đề sự trao quyền, đạo đức cũng như các vấn đề
kinh tế và môi trường. Không có những đòi hỏi định trước cho việc đạt
được sự bền vững mà điều cốt yếu là sự tương tác giữa các giá trị xã hội
và người dân địa phương trong phát triển kinh tế và quy hoạch tài nguyên
thiên nhiên.
Quản lý bền vững đòi hỏi không được để suy giảm tổng các vốn
môi trường, vốn tài nguyên con người, hay vốn mà con người tạo ra đảm
bảo cho các thế hệ tương lai. Đó là sự đáp ứng tổng số vốn đại diện cho ba
hệ giá trị mà nó phải được duy trì liên tục cho thế hệ mai sau.
112
Trong nhiều hội nghị quốc tế đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc bảo vệ các khu bảo tồn với việc đáp ứng nhu cầu của người dân địa
phương. Từ ý tưởng đó đưa đến khái niệm về mối quan hệ giữa bảo tồn và
phát triển, làm sao phát triển được nền kinh tế xã hội trong khi vẫn có thể
giữ gìn, bảo vệ được thiên nhiên. Bảo tồn là để liên kết được việc bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc thù với những nhu cầu phát triển có thể

chấp nhận được của một bộ phận dân cư mà cuộc sống của họ phụ thuộc
vào việc khai thác tài nguyên đó.
113

×