Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Việt Nam thời dựng nước ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.07 KB, 5 trang )

Việt Nam thời
dựng nước




Từ bao đời nay, trong tâm thức, người Việt tin rằng họ thuộc dòng dõi
Lạc - Hồng, là “con rồng, cháu tiên”; và họ Hồng Bàng là triều đại mở
đầu quốc thống của dân tộc Việt Nam. Niềm tin đó để lại dấu ấn trong
nhiều đền đài, đình miếu cũ, mới ở cả Bắc lẫn Nam. Người ta cũng còn
bắt gặp những hình ảnh, hình tượng của niềm tin ấy trong các lễ hội
truyền thống, trong phong tục xưa, các bài ca, bài thơ cổ. Đặc biệt, ở
đồng bằng sông Hồng và vùng đất Tổ Phong Châu (Phú Thọ ngày
nay) mang đậm nét niềm tin ấy. Trong những vùng này, có tới 600
nơi thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, bà Âu Cơ và Hùng Vương.

Các sách xưa cho rằng, mở đầu họ Hồng Bàng là Kinh Dương Vương
(khoảng năm 2879 Tr.CN), tương truyền là vị vua mở mang nghề
nông, dựng nền văn minh nông nghiệp đầu tiên của cộng đồng người
Việt cổ. Kinh Dương Vương là thủ lĩnh đầu tiên thống trị tất cả các bộ
tộc Việt ở phương Nam (từ phía Nam sông Trường Giang đến Giao
Chỉ). Tiếp sau đó là Lạc Long Quân. Sau Lạc Long Quân là các Hùng
Vương. Tổng cộng có tất cả 18 chi Hùng Vương. Vào khoảng nửa đầu
thế kỷ thứ VII Tr.CN, nước Văn Lang được thành lập. Đóng đô ở
Phong Châu (Phú Thọ ngày nay).

Lãnh thổ nước Văn Lang trải dài trên lưu vực bốn sông: sông Hồng,
sông Thái Bình, sông Mã và sông Lam, phía Đông là biển cả, phía Tây
và phía Bắc có núi cao, rừng rậm. Còn giới tuyến phía Nam rộng đến
khoảng đèo Ngang (Hoành Sơn) tương ứng với Bắc bộ và Bắc Trung
bộ nước ta bây giờ.



Kế tục nước Văn Lang là quốc gia Âu Lạc, ra đời vào thế kỷ thứ III
Tr.CN.
Có thể nói sức mạnh của nền văn minh Văn Lang – Âu lạc, với cơ sở
cộng đồng đoàn kết, quốc gia thống nhất của nền văn minh bản địa,
đã tạo cho cộng đồng người Việt có sức mạnh để chiến thắng giặc
ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên trong suốt quá trình lịch sử.

Lược bỏ màu sắc thần thoại, Sơn Tinh chiến thắng Thuỷ Tinh là thiên
anh hùng ca về cuộc chiến đấu của cư dân Việt với lũ lụt, giành lấy
những mảnh đất màu mỡ ven sông để sinh sống chủ yếu bằng nghề
trồng lúa nước. Người Việt biết trồng lúa nước vào loại sớm trên thế
giới, đến thời Hùng Vương thì nghề này đạt đến trình độ khá cao.
Nghề trồng lúa, trồng dâu chăn tằm, chăn nuôi gia súc ngày càng
phát triển thì thủ công nghiệp cũng phát triển theo (nghề gốm, nghề
dệt, nghề mộc, nghề luyện kim đồng thau, khai mỏ đồng, mỏ thiếc,
mỏ chì, nấu quặng …). Giao thông vận tải phát triển, giao lưu kinh tế
văn hoá trong cư dân Việt Nam cũng đạt trình độ phát triển khá. Đồ
đồng Đông Sơn rất phong phú, nhiều hình vẽ, bao gồm công cụ, vũ
khí, đồ đựng, đồ trang sức. Đồ đồng Đông Sơn thấy cả ở miền xuôi và
miền núi. Trên cơ sở một nền kinh tế, văn hoá phát triển, các vua
Hùng và các cư dân Việt đã nhiều lần chiến thắng các cuộc chiến
tranh chống bọn xâm lược, mà truyền thuyết gọi là giặc “Man”, giặc
“Mũi đỏ”, giặc “Ân”.

Truyền thuyết kể rằng cậu bé làng Gióng ba năm nằm trên chõng tre,
chẳng nói, chẳng cười, nhưng vừa nghe tiếng mõ rao cầu hiền tài đi
đánh giặc ngoại xâm thì đã vụt lớn như thổi, ăn hết bảy nong cơm,
với mấy vại cà rồi lên đường ra trận. Theo ông Gióng ra trận còn có
người dân cày đang cầm vồ đập đất, người câu cá, người đi săn , đoàn

trẻ chăn trâu,….nghĩa là ông Gióng cùng toàn dân ra trận.

Nước Văn Lang bước vào thế kỷ thứ III Tr.CN, là thời kỳ những đời
cuối cùng của thời đại Hùng Vương. Đây là lúc sản xuất và văn hoá
đang trên đà phát triển. Đồ đồng thau phát triển cực thịnh tạo điều
kiện quá độ sang thời kỳ đồ sắt. Nông nghiệp, thủ công nghiệp đều
phát triển hơn trứơc. Diện tích đất đai được khai phá và mở rộng ở
miền núi và trung du, đồng bằng, dân số đông thêm. Trung tâm văn
hoá và kinh tế có xu thế dời từ vùng trung du xuống miền đồng bằng.
Đó là lúc Trung Quốc đang có những biến đổi lớn. Thời Chiến Quốc kết
thúc, nhà Tần thống nhất Trung Quốc (221 Tr.CN). Tần Thuỷ Hoàng
lên ngôi hoàng đế với tư tưởng “bình thiên hạ” và chủ nghĩa bành
trướng bắt đầu đẩy mạnh. Nhà Tần liên tục phát quân xâm lược
phương Nam. Đó là cơ sở dẫn tới sự hợp nhất giữa 2 bộ tộc Lạc Việt
và Tây Âu. Nước Âu Lạc ra đời, vững mạnh hơn.

An Dương Vương dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa (huyện
Đông Anh – Hà Nội ngày nay). Với việc lập đô ở Cổ Loa, miền đồng
bằng của đất nứơc, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và văn hoá. Hai
thành phần cư dân Lạc Việt và Tây Âu hợp nhất, miền xuôi và miền
núi nối liền. Sự thống nhất đó làm cho nứơc Âu Lạc mạnh lên. Trên cơ
sở kỹ thuật đồ đồng thau phát triển, người Âu lạc đã nắm được kỹ
thuật rèn sắt. Một bước tiến mới của Âu Lạc trong kỹ thuật quốc
phòng, người Âu Lạc đã chế tạo được loại nỏ bắn một phát ra nhiều
mũi tên bằng đồng có ba cạnh sắc. Thành Cổ Loa được xây dựng.
Thành có bố cục gồm ba vòng tường đất khép kín với tên gọi dân gian
theo trình tự từ trong ra ngoài là thành Nội, thành Trung và thành
Ngoại. Thành xây theo hình tròn xoáy trôn ốc nên còn có tên là Loa
Thành. Cả ba vòng thành đều có ngoại hào. Giữa các hào có các
đường nước nối liền nhau và ăn thông ra sông Hoàng Giang. Thành

được đắp khá kiên cố, đồng thời còn có nhiều sáng tạo về kỹ thuật, về
thiết kế và khai thác tối đa điều kiện tự nhiên tại chỗ. Có thể nói
Thành Cổ Loa là một thành tựu lao động to lớn, đầy sáng tạo của
cộng đồng cư dân Âu Lạc.

Với thành Cổ Loa và “nỏ máy”, cư dân Âu Lạc thể hiện rõ tài năng
sáng tạo của mình. Nhà Tần, sau đó là Triệu Đà, hàng chục năm liền
đưa quân đánh phá Âu Lạc. Song An Dương Vương cùng cư dân Âu
Lạc đã nhiều lần kháng chiến thắng lợi.

Thất bại về quân sự, Triệu Đà chuyển sang chiến lược giả vờ cầu hoà,
cử con là Trọng Thủy sang hàng phục An Dương Vương, lấy công chúa
Mỵ Châu, ở rể tại thành Cổ Loa để lén dò xét tình hình Âu Lạc, học
phép chế nỏ rồi báo cho Triệu Đà. Kết hợp dùng quân sự và dùng gián
điệp, Triệu Đà đã thôn tính Âu Lạc vào năm 179 Tr.CN. Nước Âu Lạc
sụp đổ. Đó là thời gian nước Âu Lạc nhập vào Nam Việt và cũng là
thời điểm cộng đồng cư dân Âu Lạc bước vào thời kỳ chống Bắc thuộc
đầy cam go và biến động, thời kỳ lệ thuộc các triều đình phong kiến
Trung Hoa kéo dài nghìn năm.

×