Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG NGÀY 9 THÁNG 4 NĂM 1288 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.88 KB, 6 trang )

CHIẾN THẮNG BẠCH
ĐẰNG NGÀY 9 THÁNG 4
NĂM 1288




Thủy chiến vốn là sở trường của quân dân Đại Việt, đồng thời lại là
chỗ yếu của quân Nguyên. Thủy binh giặc phần lớn là quân tân phụ
(quân miền Nam của nhà Nam Tống cũ) vùng Quảng Đông, Quảng
Nam (Nguyên sử, q . 209, An Nam truyện), tinh thần chiến đấu kém.
Tuy được chuẩn bị công phu, thuyền vững chắc, vũ khí đầy đủ, song
thủy binh địch đã chịu nhiều thất bại, lại không thiện chiến bằng kỵ
binh và bộ binh. Mặt khác, trong đám quân rút lui theo đường thủy
hẳn có cả một bộ phận kỵ binh và bộ binh chở bằng thuyền. Bọn này
tất không quen tác chiến trên sông biển. Còn quân dân ta, sông nước
đã quen, lại chiến đấu ngay trên đất nước mình, nắm vững địa hình
địa vật, thuộc từng ngọn núi, khúc sông. Hai cuộc kháng chiến trước,
thủy binh ta đã phối hợp chặt chẽ với bộ binh trong các trận quyết
chiến ở Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, tiêu diệt
hàng chục vạn quân địch. Trong cuộc kháng chiến này, vừa qua quân
thủy đã lập nên chiến công Vân Đồn - Cửa Lục vang dội. Giờ đây,
miền ven biển là chiến trường chính, quân thủy lại phối hợp với quân
bộ, đóng vai trò quân chủ lực giải quyết chiến trường. Việc lựa chọn
đối tượng và địa bàn quyết chiến của Trần Quốc Tuấn là hoàn toàn
chính xác. Trần Quốc Tuấn chính là người vạch kế hoạch phản công và
trực tiếp chuẩn bị, chỉ huy trận quyết chiến này.


Từ Vạn Kiếp ra biển về nước đạo quân thủy của địch nhất định phải đi
qua dòng sông Bạch Đằng. Trần Quốc Tuấn quyết định chọn sông


Bạch Đằng làm trận địa quyết chiến tiêu diệt đạo quân địch rút lui
theo đường thủy. Vào những ngày tháng 3 năm 1288, vị quốc công
tiết chế lão luyện và mưu lược của quân dân ta đời Trần đã về vùng
Bạch Đằng trực tiếp nghiên cứu địa hình và đích thân bài binh bố trận.

Đây là lần thứ ba trong quá trình giữ nước, tổ tiên ta chọn sông Bạch
Đằng làm chiến địa để giành và giữ nền độc lập bảo vệ sự sống còn
của Tổ quốc.

Năm 938, Ngô Quyền đã tiêu diệt quân Nam Hán tại sông này, kết
thúc hoàn toàn nền thống trị của phong kiến phương Bắc, mở đầu
truyền thống Bạch Đằng.

Sau đó 43 năm, năm 981, Lê Hoàn đại phá quân Tống tại đây .

Lần này, sau 307 năm, lịch sử lại ghi thêm những chiến công cực kỳ
oanh hệt của Trần Quốc Tuấn và quân dân thời Trần.

Sông Bạch Đằng hiểm yếu mà hùng vĩ. Trương Hán Siêu một nhà thơ
nổi tiếng và là môn khách của Trần Quốc Tuấn, đã mô tả :
"Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thước tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát, bến nước đìu hiu"
(Bạch Đằng Giang phú của Trương Hán Siêu, theo bản dịch trong Hợp
tuyển thơ văn Việt Nam, t. II, Nhà xuất bản Văn hóa Hà Nội, 1962, tr.
36. Những trang sau, khi trích dẫn bài phú này, chúng tôi dùng bản
dịch trên.).


Sông Bạch Đằng chảy giữa hai huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy
Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, Cửa Lục khoảng 40 ki-lô-
mét, cách Vạn Kiếp – nơi đóng quân của Thoát Hoan - hơn 30 ki-lô-
mét theo ngược dòng sông Kinh Thầy. Việt sử thông giám cương mục
theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi cũng chép: "Sông Bạch Đằng rộng
hơn hai dặm, ở đó có nhiều núi cao ngất, nhiều ngành sông đổ lại,
sóng cồn man mác đến tận chân trời”. Ca dao dân gian địa phương có
câu:

Nhất cao là núi U Bò,
Nhất đông chợ Giá, nhất to sông Rừng.

U Bò là ngọn núi thuộc dãy Tràng Kênh, sông Rừng là sông Bạch
Đằng.

Nước sông Bạch Đằng hàng ngày theo thủy triều lên xuống. Khi triều
lên cao, mặt sông Ở vùng Tràng Kênh trải rộng hơn 1.200 mét. Dòng
sông đã rộng lại sâu. Khi triều xuống nước rặc, nơi sâu nhất đến 16
mét, trung bình giữa dòng cũng sâu từ 8 mét đến 11 mét (Theo bản
đồ của Cục phòng thủ bờ biển năm 1956, tỷ lệ 1/69.400).

Theo sông Đá Bạc chảy xuống đến đầu dãy núi Tràng Kênh, sông
Bạch Đằng phình to hẳn ra. Đó là nơi tập trung các dòng nước của các
sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Gia Đước, sông Thải, sông
Giá bên hữu ngạn đổ về. Sông Chanh, sông Kênh (cửa sông này ngày
nay đã bị lấp) và sông Rút (còn gọi là sông Nam) là chi lưu bên tả
ngạn Bạch Đằng chia bớt nước chảy ra Vịnh Hạ Long (Theo sự nghiên
cứu về địa mạo thì sông Chanh, sông Kênh, sông Rút xưa kia là lạch
thoát triều của sông Bạch Đằng. Hiện nay, vùng này phù sa đang bồi

thêm. Vì thế sông Kênh chảy qua vùng Đồng Cốc (thuộc Yên Hưng)
đang bị lấp cạn, cửa sông hiện nay chỉ còn vết trũng sâu mà nhân dân
địa phương gọi là lũng Mắt Rồng sát bờ đê sông Bạch Đằng). Một khúc
sông không dài quá 5 ki-lô-mét mà có 5 dòng nước đổ về và có 3
nhánh sông phụ đưa nước ra biển. Đó là hình thế của thượng lưu Bạch
Đằng.

Ở lòng sông Bạch Đằng, từ bên hữu ngạn (thuộc xã Phục Lễ, Thủy
Nguyên) có một cồn đá ngầm chạy qua đến quãng giữa cửa sông
Chanh và sông Rút. Nhân dân địa phương gọi đó là ghềnh Cốc. Ghềnh
Cốc có 5 cồn đá chắn ngang gần 3 phần 4 sông. Khi triều xuống thấp
nhất, cồn cạnchỉ cách mặt nước 0,40 mét, cồn sâu cách 3,70 mét,
thuyền đi nhẹ trên sông có thể thấy được những cồn đá (Thời pháp
thống trị, chúng đà đào sâu những cồn đá bên tả ngạn, đặt cột đèn
tín hiệu cho tàu thuyền qua lại lưu ý. Khi nước xuống thấp, tàu thuyền
qua đây không đi vào lạch sâu thường bị va vào đá và bị đắm). Ghềnh
Cốc cấu tạo bằng đế gốc do chân núi đá Tràng Kênh kéo dài ra.

Ghềnh Cốc án ngữ ngang sông là một chướng ngại thiên nhiên của
sông Bạch Đằng. Khi trời mưa to, gió lộng, thuyền qua lại thường gặp
nguy hiểm. Ca dao dân gian đã mượn lời cha mẹ nhắn bảo khách qua
sông:

“Con ơi nhớ lấy lời cha
Mưa nguồn, chớp giật chớ qua sông Rừng"

Chính vì thế nên trước đây thuyền xuôi Bạch Đằng ra biển gặp khi
triều xuống thường phải rẽ theo đường sông Chanh mà ít qua ghềnh
Cốc ra cứa Nam Triệu. Sông Chanh, chi lưu lớn của sông Bạch Đằng,
chảy qua huyện Yên Hưng, là đường ngắn nhất và là tuyến giao thông

đường thuỷ quan trọng đi ra vịnh Hạ Long ở miền Đông Bắc. Khi
chuẩn bị chiến trường, ghềnh Cốc đã khiến Trần Quốc Tuấn phải chú
ý. ông đã lợi dụng địa hình thiên nhiên này, sử dụng ghềnh Cốc như là
một chiến lũy ngầm, chặn địch lại, tạo điều kiện cho thuyền chiến của
ta ngăn chặn con đường tháo chạy của địch ra cửa Nam Triệu.

×