Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tạ Văn Phụng và cuộc khởi binh chống Nguyễn (1861-1865) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.99 KB, 10 trang )

Tạ Văn Phụng và cuộc khởi binh
chống Nguyễn (1861-1865)

Tạ Văn Phụng (? - 1865), còn có các tên là Bảo Phụng, Lê Duy
Phụng, Lê Duy Minh. Ông là người Việt thân Pháp và là thủ lĩnh
cuộc nổi dậy (sử cũ thường gọi là "giặc biển") ở Bắc Kỳ (Việt Nam)
khởi từ cuối năm 1861 đến cuối năm 1865 thì kết thúc.

Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì lúc bấy giờ Tạ Văn Phụng và cuộc nổi
dậy của ông là đáng kể hơn cả. Nó đã khiến triều Tự Đức phải dốc toàn
lực để đàn áp bằng binh hùng tướng mạnh. Tính ra từ năm 1861 đến
1865, Tạ Văn Phụng đã làm cho vua quan nhà Nguyễn hao tổn tinh thần
và tổn hại biết bao sinh mạng cùng tiền tài mới bắt sống được ông. Còn
sử gia Trần Trọng Kim thì cho rằng chính Tạ Văn Phụng là một trong số
nguyên nhân đã góp phần làm cho nhà vua phải vội vã sai Phan Thanh
Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định giảng hòa với thực dân Pháp [1].

*
Tạ Văn Phụng sinh tại huyện Thọ Xương, thuộc Hà Nội, trong một gia
đình theo Thiên Chúa giáo. Trước đây, ông được một giáo sĩ đưa đi nuôi
dạy ở nước ngoài, sau lại theo đoàn quân viễn chinh Pháp về đánh
Quảng Nam [2]. Đến tháng chạp năm Quý Dậu (1861) thì ông ra Bắc Kỳ
tự xưng mình là Lê Duy Minh, thuộc dòng dõi nhà Lê (mạo nhận là hậu
duệ vua Lê Trang Tông) để làm cuộc lật đổ nhà Nguyễn.

Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
Tháng 12 năm Quý Dậu, tỉnh Quảng Yên nổi giặc biển. Cố đạo Trường
làm chủ mưu giặc, tôn Tạ Văn Phụng làm Minh chúa; Văn Phụng mạo
xưng con cháu nhà Lê tên là Lê Duy Minh; bọn tên Ước, tên Độ làm
tướng giặc; sau hiệp với các thổ phỉ tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn
Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An; lại thông với


giặc Cổ phỉ Tàu. Chúng nó tụ hội ở các phần biển châu Tiên Yên phủ
Hải Ninh, mà giặc ấy ngày càng nhiều (tr. 397).

Theo sử liệu thì chỉ trong thời gian ngắn Tạ Văn Phụng đã chiêu mộ
được một đạo quân đông đảo, mà đa phần là những người dân đói khổ
lưu vong, cùng nổi dậy tại đất Quảng Yên, rồi kéo nhau đi đánh phá các
nơi.

Lo ngại, tháng giêng năm Nhâm Tuất (1862), vua Tự Đức sai Tổng đốc
Định An Nguyễn Đình Tân sung chức Hải Yên Kinh lược Đại thần,
Nguyễn Tư Giản làm Tham tán quân vụ, nhưng chỉ được ít lâu thì bị
cách, vì không làm tròn nhiệm vụ. Lúc bấy giờ, Tạ Văn Phụng đã làm
chủ được vùng Hải Ninh (thuộc Quảng Yên).

Tháng 3 (âm lịch) năm ấy, Cai Vàng ở Bắc Ninh cũng lấy danh phù Lê
(tôn Lê Duy Uẩn làm minh chủ) để làm cuộc nổi dậy. Sau đó, Tạ Văn
Phụng và Cai Vàng liền hợp tác với nhau để tăng thanh thế.

Tháng 5 (âm lịch), sau khi đã đánh chiếm phủ Hải Ninh, Tạ Văn Phụng
bèn cho quân bao vây và uy hiếp thành tỉnh Hải Dương. Theo sách Lịch
sử Việt Nam (1427-1858), thì trong khoảng thời gian này, Tạ Văn Phụng
có cử người vào Nam Kỳ nhờ tướng Bonard trợ lực, với lời hứa hẹn rằng
sẽ lập một vương quốc Công giáo dưới quyền Pháp bảo hộ sau khi đánh
đổ được nhà Nguyễn. Nhưng vì trong ấy phong trào kháng chiến đang
tăng mạnh, và việc hòa ước với triều đình Huế cũng sắp xong, cho nên
viên tướng này đã không thuận [3].

Nhận tin báo nguy, vua Tự Đức liền cử Thượng thư bộ Hộ Trương Quốc
Dụng làm Thống đốc Hải An quân vụ Đại thần, Thị lang bộ Hộ Phan
Tam Tỉnh làm Hộ lý tổng đốc, Chưởng vệ Đặng Hạnh, Lê Xuân đều

sung chức Đề đốc, rồi đem lính ở Huế và ở Thanh Nghệ đi đánh quân Tạ
Văn Phụng. Tiếp theo, nhà vua lại điều thêm Kinh lý đại thần Đào Trí
đang làm nhiệm vụ ở Trung Kỳ ra làm Tham tán quân thứ Hải Yên.

Tháng 6 (âm lịch), nhà vua lại truyền cho Nguyễn Bá Nghi từ quân thứ
Bình Thuận về lãnh chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên.

Tháng 7 (âm lịch), các tướng là Trương Quốc Dụng, Đào Trí, Phan
Tham Tĩnh từ Hưng Yên dẫn quân qua lấy lại được phủ Bình Giang và
giải vây cho tỉnh thành Hải Dương.

Tháng 11 (âm lịch), đạo quân thứ tỉnh Đông (Hải Dương) lại đụng độ
với quân Tạ Văn Phụng tại phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn (đều thuộc
tỉnh Hải Dương). Quân triều thắng trận liền kéo thẳng đến tỉnh thành
Quảng Yên, đuổi quân Tạ Văn Phụng chạy ra Đồ Sơn, Cát Bà.

Tháng 3 năm Quý Hợi (1863), Phó đề đốc Vũ Tảo đánh lấy lại thành
Tuyên Quang và bắt sống được Lê Duy Uẩn (minh chủ của quân Cai
Vàng).

Tháng 5 (âm lịch) năm ấy, vua Tự Đức điều động Nguyễn Tri Phương
sang làm Tổng thống Hải Yên quân vụ, đổi Trương Quốc Dụng làm
Hiệp thống để cùng hiệp lực đi đánh dẹp. Ngay sau đó, Hải Yên thủy
đạo Thống chế Lê Quang Tiến đánh đuổi được quân Tạ Văn Phụng tại
tổng Hà Nam thuộc tỉnh Quảng Yên.

Nếu không bị bão, biết đâu Việt Nam có thêm một ông vua họ Tạ
Sau lần thua trên, tháng 9 (âm lịch), Tạ Văn Phụng quyết định thay đổi
chiến lược. Ông cho tập hợp toàn bộ lực lượng lại, gồm khoảng 500
chiến thuyền, từ Cát Bà và Đồ Sơn tiến thẳng vào kinh đô Huế. Theo

Phạm Văn Sơn thì Tạ Văn Phụng cho rằng quân lực của triều đình đã
chuyển hết ra Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Ở đấy quân đơn tướng ít mà bị đánh
úp dễ bị mất như chơi. Nhưng chẳng may kế hoạch này không thành vì
binh thuyền của Phụng bị bão tan vỡ gần hết [4].

Đề đốc Lê Quang Tiến và Tuần phủ Bùi Huy Phan bắt được tin ấy vội
đem quân ra định tiêu diệt nốt, không ngờ quân của Tạ Văn Phụng tuy
không còn khả năng tấn công Huế, nhưng vẫn còn đủ sức đánh tập hậu,
khiến quân triều bị thua đậm. Thất bại, cả hai võ quan trên đều nhảy
xuống biển tự tận.

Tháng 6 năm Giáp Tý (1864), đạo quân thứ Hải Yên lại tổ chức tấn công
quân Tạ Văn Phụng ở tại La Khê, tổng Hà Bắc (thuộc huyện Yên Hưng,
phủ Hải Đông, tỉnh Quảng Yên). Lần này, quân triều bị thua to, biền
binh bị thương và thất lạc rất nhiều. Các tướng nhà Nguyễn là Hiệp
thống Trương Quốc Dụng, Tán lý Phạm Văn Khuê, Tán tương Trần Huy
Sách đều tử trận. Riêng Chưởng vệ Hồ Thiện bị bắt sống, nhưng sau đó
cũng bị giết chết. Nhận được tin đại bại, vua Tự Đức liền sai người đi
"thuê tàu khách đánh giặc" (tức tàu của hải quân nhà Thanh).

Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
Tháng 7, Ngài (Tự Đức) sai Thị lang bộ Hộ Trịnh Lý Hanh qua quân
thứ Hải Yên, hội đồng với quan quân thứ thuê tàu khách đánh giặc [13].
Tháng 4 năm Ất Sửu (1865), Tạ Văn Phụng đem hơn 300 chiến thuyền
từ cù lao Phò Long, quần đảo Cát Bà, chia làm ba đạo đến quấy phá ở
mạn Hải Dương. Tướng Nguyễn Tri Phương khiến Nguyễn Văn Vĩ đốc
thuyền đến đánh, bắt sống và chém nhiều quân nổi dậy. Cũng trong
tháng này, quân Tạ Văn Phụng lại tràn vào sông Võ Định xứ Lang Thâm
thuộc tỉnh Hải Dương, dùng kế hỏa công đánh tan tác đạo quân thủy ở
nơi sông Cấm, bắt sống được Thống chế Nguyễn Doãn rồi giết chết. Hay

tin, tướng Nguyễn Tri Phương liền đốc lính bộ tới đánh đuổi (tr. 423).

Tháng 5 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Tạ Văn Phụng lại đem quân tấn
công đồn Quỳnh Lâu và An Trì thuộc Quảng Yên. Tán lý Đặng Trần
Chuyên đánh đuổi được. Đốc binh là Ông Ích Khiêm lại đánh được quân
nổi dậy tại khe Vị Dương . Đề đốc Mai Thiện chia quân đến các xứ Hạ
Đoan, Lang Thâm, đánh hơn 10 trận lớn nhỏ đều thắng.

Sau khi bị đánh thua ở nhiều nơi, Tạ Văn Phụng buộc phải cho quân lui
về giữ Hải Ninh. Đến tháng 6 (âm lịch) năm ấy, quân Tạ Văn Phụng bị
các tướng là Nguyễn Tri Phương, Phạm Chi Hương, Nguyễn Văn Vĩ,
Mai Thiện cầm quân thủy bộ đến vây đánh.

Tiếp đó (tháng 7 âm lịch), khoảng trăm chiếc tàu của Tạ Văn Phụng
đang neo đậu tại sông Thác Hàn ngoài thành Hải Ninh, cũng bị Đốc binh
Ông Ích Khiêm và Phó vệ úy Phan Đình Thảo hiệp đồng với quan nhà
Thanh ở Khâm Châu là Lý Văn Yên đến đánh. Trận diễn ra vào buổi tối,
đến sáng thì quân triều lấy lại được thành Hải Ninh, đuổi đoàn tàu chiến
(ước chừng 70, 80 chiếc) của quân nổi dậy chạy đến vũng Ngọc Sơn (Đồ
Sơn) Bị truy đuổi, Tạ Văn Phụng cùng tùy tướng tên là Ước (không rõ
họ) lại đem đoàn thuyền chạy vào tới vùng biển Thanh Hóa, Nghệ An.

Bị bắt và bị xử chết
Tháng 8 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), đạo quân thứ Hải Yên do tướng
Nguyễn Tri Phương chỉ huy lại truy đuổi một đội tàu của Tạ Văn Phụng
tại sông Gia Luận thuộc xứ Hà Lai. Tại đây, ông sai Tri huyện Nghiêu
Phong là Nguyễn Hữu Thuận đem binh thuyền đi thăm dò địa phận
sông, thì chợt gặp thuyền Đô thống Hậu quân của quân nổi dậy là Phạm
Văn Khương và Oánh (không rõ họ) nên hô quân bắt được. Sau đó, ông
Oánh bị giết ngay, còn ông Khương thì bị nhốt cũi giải về Kinh đô Huế.


Sang tháng sau (tháng 9 âm lịch), thì đoàn thuyền Tạ Văn Phụng bị
"bang thuyền nước Tàu" đánh tan ở ngoài Hải Ninh và hòn Thảo Dự ở
Quảng Bình. Đến lúc ấy quân nổi dậy, người thì phải bắt, người thì chạy
trốn được. Phần Tạ Văn Phụng và tùy tướng tên là Ước, sau đó cũng bị
bắt sống giải về Huế.

Tháng 10 năm 1865, Tạ Văn Phụng bị xử lăng trì.

Vấn đề liên quan
Có một số tác giả cho rằng Tạ Văn Phụng đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy
có qui mô rộng lớn, chống lại nhà Nguyễn, thu hút đông đảo nhân dân
đói khổ lúc bấy giờ, và đã làm cho triều đình Huế phải lao đao lắm mới
dẹp yên được. Nhưng xu hướng hòa thân với Pháp để lợi dụng Pháp,
cũng như việc liên kết với quân Tàu ô, quân khách (tàn dư của các cuộc
chống Thanh, nhưng đã biến chất. Sử cũ thường gọi họ là: "giặc khách")
đã lái cuộc nổi dậy đi chệch hướng, làm mất dần sự ủng hộ của nhân dân
Việt.

Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng Tạ Văn Phụng không phải là
người chủ xướng việc liên kết mà chỉ là "con bài" của thực dân Pháp,
với sự tiếp tay của các cố đạo. Bởi các phong trào kháng Pháp ở Nam
Kỳ lúc bấy giờ đang dâng cao, khiến họ phải nghĩ tới một giải pháp
chánh trị [5].

Theo sử liệu dẫn trong sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười, thì Tạ
Văn Phụng là một người Việt Nam không rõ nguồn gốc, nhưng đã được
rửa tội và nuôi dưỡng trong trụ sở Giáo hội tại Pinang. Năm 1854, Tạ
Văn Phụng tự xưng là hậu duệ nhà Lê, hô hào một cuộc nổi dậy ở Quảng
Yên. Nhưng sau đó, nghe lời khuyên của giám mục Retord, ông ngưng

hoạt động và ẩn trốn ở Hồng Kông.

Sau khi tàu liên quân Pháp-Tây Ban Nha nả đại bác vào Đà Nẵng (1
tháng 9 năm 1858), giám mục Retord liền nảy ra ý định tạo ra một ông
vua theo đạo Thiên Chúa dưới sự bảo trợ của Pháp, và ông đã nghĩ ngay
đến Tạ Văn Phụng. Tạ Văn Phụng nhận lời trở lại Bắc Kỳ vào giữa năm
1861, rồi phất cờ phù Lê và chọn cố đạo Trường [6] làm mưu sĩ. Chỉ
trong vài tuần lễ, Tạ Văn Phụng chiêu mộ được một đạo quân có hơn hai
vạn.

Đầu năm 1862, trung sĩ Charles Duval bí mật đến Bắc Kỳ, tiếp xúc với
Tạ Văn Phụng với mục đích đẩy mạnh cuộc nội chiến, nhằm gây áp lực
với vua Tự Đức phải nhận ký hòa ước thua thiệt với người Pháp vào
ngày 5 tháng 6 năm 1862 (Hòa ước Nhâm Tuất). Đến đây kể như số
phận của "con bài Tạ Văn Phụng" đã kết thúc, vì thực dân Pháp đã đạt
được thắng lợi trong giải pháp chính trị. Và bất kể tương lai cá nhân của
Tạ Văn Phụng, sau khi làm tròn nhiệm vụ của mình, Ch. Duval đã rời
đất Bắc ngày 17 tháng 7 năm 1863[7].

Ý đồ biến Tạ Văn Phụng thành một ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới
sự bảo trợ của Pháp, cũng đã được linh mục Theurel đề cập đến. Ông
viết:
Nếu các nhóm phản loạn đoàn kết, chúng có hy vọng thành công. Với
ông vua mới này, con cái của chúng ta chắc chắn sẽ có được sự hòa bình
tôn giáo, và dân chúng sẽ theo vua chúng mà theo đạo. Nhưng y chỉ là
một tên giả mạo [8].
Trong bài viết, tác giả Charile Nguyễn cũng cho biết rằng Tạ Văn
Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang. Năm
1858, Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin
giúp đỡ. Sau đó, gián điệp Duval được cử sang Việt Nam với mục đích

biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo. Chính Duval đã đi Macao mua vũ
khí và giúp Văn Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo
dân, rồi lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê mà dấy binh [9].

×