Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

NIỀM KIÊU HÃNH CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG NGÀY 9 THÁNG 4 NĂM 1288_5 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.36 KB, 10 trang )

NIỀM KIÊU HÃNH CHIẾN THẮNG BẠCH
ĐẰNG NGÀY 9 THÁNG 4 NĂM 1288

Trần Quốc Tuấn bố trí một lực lượng quân đội phối hợp với các đội dân
binh địa phương đánh địch trên suốt đường rút lui của chúng từ Vạn
Kiếp đến Bạch Đằng. Nhiệm vụ trước hết của lực lượng này là đánh lui
đội kỵ binh hộ tống của Thoát Hoan đã cô lập hoàn toàn đoàn thuyền
chiến của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và để cho chúng không phát hiện đưược
trận địa mai phục của ta ở hai bên bờ sông. Sau đó quân ta đánh kiềm
chế để bảo đảm đưa quân địch vào trận địa quyết chiến sau khi ta đã
chuẩn bị xong và đúng vào lúc nước triều bắt đầu xuống. Có như thế
những trận đánh quyết liệt mới diễn ra vào lúc nước xuống thấp, và
ghềnh Cốc cũng như những bãi cọc mới phát huy được tác dụng. Đây là
một kế hoạch đánh kiềm chế và nhử địch rất phức tạp, khó khăn. Một
bộ phận quân chủ lực do vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông chỉ huy
phối hợp với dội dân binh của Nguyễn Xuân đóng ở núi Kính Chủ (Kinh
Môn, Hải Dương) bên bờ sông Kinh Thầy, sẵn sàng hỗ trợ để bảo đảm
thực hiện thắng lợi kế hoạch kiềm chế và nhử địch. Sau khi quân địch
đã lọt vào trận địa mai phục ở Bạch Đằng thì đạo quân của hai vua Trần
sẽ theo sông Kinh Thầy, Đá Bạc tiến xuống phối hợp với đại quân tiêu
diệt đoàn thuyền địch trên trận địa quyết chiến.

Cuối sông Kinh Thầy, đoàn thuyền địch có thể theo sông Đá Bạc ra
thượng lưu sông Bạch Đằng, nhưng cũng có thể theo sông Giá men
theo phía nam núi Tràng Kênh ra sông Bạch Đằng ở khoảng đối diện với
cửa sông Chanh. Một lực lượng quân ta mai phục sẵn ở Trúc Động làm
nhiệm vụ bịt đường sông Giá để buộc quân địch phải theo sông Đá Bạc
dẫn thân vào trận địa mai phục của ta ở thượng lưu sông Bạch Đằng và
để bảo vệ bí mật, an toàn cho lực lượng quân thủy bộ của ta mai phục
ở cửa sông Giá và núi Tràng Kênh.


Như trên đã nói, để bảo đảm cho thế trận bao vây địch được hoàn
chỉnh, tạo điều kiện cho bộ phận bố trí ở các cửa sông chặn đứng địch
lại thì ngoài việc lợi dụng ghềnh Cốc như một chướng ngại tự nhiên,
Trần Quốc Tuấn còn cho xây dựng ở các cửa sông những trận địa cọc lợi
hại.

Trong lịch sử giữ nước, trên dòng sông Bạch Đằng dã diễn ra nhiều
chiến công lừng lẫy trong đó có hai lần quân dân ta đóng cọc gỗ xuống
lòng sông để tạo thành bãi chướng ngại ngăn chặn thuyền địch. Lần thứ
nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán cuối năm 938 và lần
thứ hai là năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Trước đây Vương (chỉ Trần Quốc
Tuấn) đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên” (Đại Việt sử ký
toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. II , tr. 61). Cả trận địa cọc chỉ được ghi
chép đơn sơ có từng ấy chữ. Tuy nhiên nó cũng cho ta thấy ý nghĩa
quan trọng của hàng cọc trong trận quyết chiến này.

Như phần trên đã nói, lòng sông Bạch Đằng rất rộng, rất sâu, khó có
hàng cọc chắn ngang sông được. Ở ghềnh Cốc thì cạn hơn nhiều, nhưng
là đá gốc kéo dài từ chân núi Tràng Kênh nên không thể nào cắm cọc
xuống được. Mặt khác nước triều lên xuống mạnh, độ chênh lệch khá
lớn. Lưu tốc nước là 0,20 mét - 0,86 mét/giây, độ lệch trung bình khi
nước lên và xuống là 2,30 mét. Những số liệu trên cũng cho ta một ý
niệm về sông nước Bạch Đằng đời Trần.

Theo sông Bạch Đằng ra biển có thể xuôi thẳng ra cửa Nam Triệu hay
chuyển sang các chi lưu là sông Chanh, sông Kênh, sông Rút ra biển. Khi
nước triều xuống, ghềnh Cốc đã có giá trị như một bãi chướng ngại tự
nhiên ngăn chặn con đường ra cửa Nam Triệu. Nhưng thuyền địch vẫn

có thể chạy thoát theo sông Chanh, sông Rút. Những tài liệu khảo sát
gần đây cho biết: các trận địa cọc của Trần Quốc Tuấn được bố trí nhằm
chặn ngang qua các cửa sông này. Đó là những bãi cọc cửa sông Chanh,
cửa sông Kênh, cửa sông Rút (Vùng Bạch Đằng có nhiều bãi cọc khác
đóng ở ven sông. Bờ phải sông có bãi cọc tả ngạn sông Giá và áng
Khinh, những bãi cọc ở Gia Đước. Bờ trái sông có những cọc gỗ ở xã
Điền Công (Yên Hưng, Quảng Ninh), bãi cọc trong lòng sông Chanh hiện
nay, bãi cọc ở bến đò Rừng xét về vị trí địa lý và chất liệu cọc thì đó hầu
hết là vết tích cọc đáy của dân đánh cá hoặc cọc kè chân đê ven sông.
Nhân dân địa phương cũng nói như vậy).

Việc bố trí trận địa cọc được tiến hành khẩn cấp. Vào những ngày tháng
3 còn giá lạnh, quân dân Đại Việt đã đem hết sức mình, bí mật và nhanh
chóng chuyển những cây go lim to lớn tập trung về ba cửa chi lưu. Cọc
lim được lấy cách đấy không xa, Ở ngay cánh rừng Yên Hưng bên tả
ngạn sông Bạch Đằng. Quân sĩ và nhân dân miền Đông Bắc đã về đây
lao động khẩn trương hạ hàng ngàn cây lim, đục đẽo và tu sửa theo
kích thước đã định.

Bãi cọc chính nằm ở cửa sông Chanh sát liền với sông Bạch Đằng là bãi
cọc Yên Giang. Hàng cọc đóng ngang qua sông Chanh theo hướng nam -
bắc. Di tích của bãi cọc này đã được phát hiện và khai quật (Niên đại
của bãi cọc Yên Giang hiện còn những khía cạnh cầu được nghiên cứu,
xác minh thêm). Bãi cọc dài gần 120 mét, rộng 13 mét. Hầu hết các cọc
đều to và vững chắc, có đường kính từ 20cm đến 30cm và dài từ 1,50
mét trở lên, phổ biến trên 2 mét. Những cọc đóng ở giữa lòng sông dài
đến gần 3 mét. Khoảng cách giữa các cọc trung bình từ 0,90 mét đến
1,20 mét. Giữa các hàng cọc có nhiều khúc gỗ nằm ngang, có lẽ do quân
ta cài để chặn thuyền giặc (Thời gian trôi qua đã gần 700 năm, địa hình
bãi cọc với vùng xung quanh so với trước đã khác nhiều. Phù sa lớp lớp

đổ vào đã lấp kín cọc. Nhưng từ bề mặt vùng này và nghiên cứu các lớp
đất theo mặt cắt đứng thì thấy rõ thời bấy giờ bãi cọc còn nằm trong
lòng sông Chanh sát liền với sông Bạch Đằng. Cho đến hiện nay, khi
nước triều lên cao thì mặt đất trên bãi cọc lại thấp hơn mặt nước ngoài
sông.

Nếu bỏ đê quai bên tả ngạn sông Chanh, thì toàn bộ khu vực có bãi cọc
bị chìm khá sâu trong nước).

Bãi cọc ở sông Kênh (Bãi cọc ở cửa sông Kênh hiện nay đá bị phù sa lấp
kín, ngập chìm trong cánh đồng Vạn Muối thôn Đồng Cốc bên tả ngạn
sông Bạch Đằng), sông Rút nhỏ hơn, được cắm theo hướng nam - bắc
ngang qua cửa sông. Cách bố trí hai bãi cọc này cũng giống như ở cửa
sông Chanh. Các cọc lim được cắm đều thành hàng có kích thước lớn,
đường kính từ 0,18 mét trở lên và chiều dài trung bình gần 2 mét (Dấu
vết bãi cọc ở hai cửa sông Kênh, sông Rút không còn mấy. Hiện nay còn
3 cọc có đường kính từ 0,18 mét đến 0,21 mét. Ở cửa sông. Một số cọc
bị đào lên từ trước để tại địa phương có độ dài đều trên 2 mét).

Cả ba bãi cọc phối hợp với nhau, kéo dài như một phòng tuyến ngầm,
chặn ba cửa sông tức ba lối thoát từ sông Bạch Đằng ra biển. Các cọc
cắm đều theo một kích thước chung như thế nào để khi triều lên thì
nước ngập mênh mông, nhưng khi triều xuống thì bãi cọc nhô ra như
những'bãi chướng ngại chặn đứng đoàn thuyền địch.

Chỉ trong một thời gian rất ngắn, sau trận càn quét của Ô Mã Nhi ở trại
Yên Hưng ngày 22 tháng 3, trận địa cọc mới bắt đầu được bố trí. Thế
mà không quá 20 ngày, sức lực và của cải của nhân dân ta đã dồn lại
khắc phục khó khăn, gian khổ, hoàn thành trận địa cọc với hàng ngàn
chiếc. Bãi cọc được tạo nên bằng trí tuệ và sức lực, bằng tinh thần yêu

nước và ý chí quyết thắng của quân dân thời Trần. Đó là một biện pháp
và hình thức chiến đấu độc đáo của tổ tiên ngày trước, là một sáng tạo
trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Cùng với việc chuẩn bị các trận địa cọc, chỉ trong một thời gian tương
đối ngắn, quân dân ta đã khẩn trương và bí mật, nhanh chóng và cẩn
thận tiến hành mọi việc chuẩn bị chiến trường. Tất cả đều mang hết sức
lực trí tuệ, của cải, cố sức làm gấp mọi công việc chuẩn bị cho trận
quyết chiến chiến lược có ý nghĩa quyết định toàn cuộc chiến tranh.

Trước khi đạo thủy quân Ô Mã Nhi kéo đến cửa sông Bạch Đằng, mọi
công việc đã hoàn thành tốt đẹp. Quân dân ta đã sẵn sàng trong tư thế
chiến đấu và chiến thắng. Trước khi vào cuộc kháng chiến lần thứ ba,
Trần Quốc Tuấn trả lời vua nhà Trần: "Chúng đã khiếp sợ vì sự thất bại
của Hằng, Quán, tinh thần chiến đấu không còn nữa. Cứ ý thần thì tất
đánh tan được chúng (Hằng và Quán là tướng Nguyên bị ta bắn chết
trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai. Đại Việt sử ký
toàn thư, sách đã dẫn, t. II, tr. 58). Diễn biến của cuộc kháng chiến hoàn
toàn chứng thực nhận định sáng suốt của vị quốc công tiết chế. Sau ba
tháng xâm lược, hàng chục vạn quân của Thoát Hoan đã lâm vào thế
khốn quẫn và phải rút lui để tránh nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn.

Cuối tháng 3 năm 1288, từ căn cứ Vạn Kiếp, Thoát Hoan cho đạo thủy
quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp rút lui trước. Trên bờ có đội kỵ binh hộ
tống do hữu thừa Trình Bằng Phi và thiên tỉnh Đạt Truật chỉ huy. Dọc
đường hành quân của kỵ binh giặc (có thể là đường quốc lộ 18 qua
Đông Triều hiện nay), quân dân ta theo kế hoạch đã đề ra, khẩn trương
phá hủy cầu đường, bố trí quân mai phục chuẩn bị đón đánh làm chậm
bưước đi rồi buộc chúng phải quay trở lại Vạn Kiếp, tách rời đội kỵ binh
khỏi đạo binh thuyền.


Cầu bị phá, đường bị chặt từng đoạn, lại bị đón đánh liên tục, đội kỵ
binh của địch hành quân rất khó khăn, chậm chạp. Ngày 4, đến chợ
Đông Triều, không qua được sông, chúng rất sợ quân ta tập kích. Ngay
đêm hôm đó, chúng tìm đường quay trở lại. Nhưng sợ đi đường cũ sẽ
bị quân ta tiêu diệt nên bọn chỉ huy Trình Bằng Phi, Đạt Truật tìm
đường tắt trở về Vạn Kiếp để kịp thời theo Thoát Hoan rút chạy về
nước, mặc cho đoàn thuyền Ô Mã Nhi rút lui một mình trên sông nước,
không có kỵ binh hộ tống và yểm hộ.

Sự kiện trên không có trong chính sử cũ của ta mà chỉ dược ghi trong
An Nam chí lược của Lê Trắc (tên Việt gian đương thời đầu hàng quân
Nguyên). Mặc dầu còn quá sơ lược không cho ta biết rõ diễn biến cụ
thể của những trận đánh chặn địch, song điều ghi chép của Lê Trắc cũng
nói lên nghệ thuật tài tình của quân dân ta: không tốn sức nhiều mà cả
đội kỵ binh địch mới đi được hơn vài mươi dặm đã phải quay trở lại, bỏ
mặc cả đạo binh thuyền Ô Mã Nhi đang chật vật trên dòng sông, nguy
hiểm và cô lập: Thắng lợi của những trận đánh chặn địch từ Vạn Kiếp
đến Đông Triều là đã tách rời đoàn thuyền Ô Mã Nhi khỏi đội kỵ binh hộ
tống, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho chiến thắng Bạch Đằng sau
đó.

Ngày 30 tháng 3, đạo binh thuyền Ô Mã Nhi từ Vạn Kiếp rút quân.
Chúng đi rất chật vật. Từ ngày bước chân vào Đại Việt, đạo binh thuyền
này phải đánh nhau gần như liên tục ở An Quảng, Đại Bàng, Tháp Sơn
và nhiều lần bị thất bại nặng nề. Quân lính mệt mỏi, bọn chỉ huy hoang
mang lo lắng. Đấy là cuộc rút quân trong thế thất bại, đầy tối tăm mù
mịt.

Dọc đường từ Vạn Kiếp qua sông Kinh Thầy, quân dân ta đã bố trí nhiều

trận đánh tiêu hao địch. Quân chủ lực dưới quyền chỉ huy trực tiếp của
hai vua Trần phối hợp với dân binh ở vùng Hiệp Môn (Kinh Môn, Hải
Hưng) do Nguyễn Xuân chỉ huy, mở nhiều trận đánh kìm hãm bước tiến
của địch (Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Hải Dương) ghi rõ Trần Nhân
Tông trú quân ở núi Dương Nham đánh quân Nguyên). Chúng đi rất
chậm chạp, phải “giao chiến ngày ngày qua ngày khác” (Nguyên sử, q.
166, Trương Ngọc truyện).

Ngày 8 tháng 4, đội tiền vệ của địch do tướng Lưu Khuê chỉ huy đến
đầu sông Giá. Chúng muốn thăm dò lực lượng quân ta và tìm đường rút
lui an toàn, theo sông Giá ra Bạch Đàng.

Đến Trúc Động, Lưu Khuê bị quân ta đón đánh (Trúc Động nay là một
thôn thuộc xã Lưu Kiếm, trước kia là một tổng lớn gồm cả Liên Khê và
Lưu Kiếm). Trúc Động có rừng núi hiểm trở, có sông Đá Bạc và sông Giá
bao quanh, lại sát liền với dãy Tràng Kênh. Chính Trần Quốc Tuấn đã
qua đây quan sát địa hình. Khi rút khỏi Vạn Kiếp, rời kinh thành Thăng
Long, một bộ phận quân Trần đã về Trúc Động đóng giữ. Hai tháng
trước, Ô Mã Nhi và A Bát Xích đã bị đánh ở đây.

Trận Trúc Động là một trận phục kích diễn ra vào lúc ban đêm. Theo
truyền thuyết địa phương thì trong trận này, quân ta tuy ít nhưng tìm
cách nghi binh vừa chặn đánh vừa hư trương thanh thế lừa địch. Kế
hoạch nghi binh được chuẩn bị chu đáo và thực hiện bằng nhiều hình
thức phong phú. Trước đó, mỗi gia đình nộp cho quân đội nhiều mo
cau có trát cơm và các bè chuối. Khi được tin giặc sắp kéo đến, quân ta
đóng trên núi đã thay đổi quần áo và cờ lệnh năm lần với năm màu sắc
khác nhau, lại thả rất nhiều mo cau và thân chuối trôi đầy sông. Đêm
tối, đèn đuốc đốt sáng, chiêng trống rộn rịp. Đồng thời quân ta lại chẹn
đánh phía trước và hai bên, tên bắn xuống như mưa gây nhiều thiệt hại

cho địch. Địch tưởng quân ta đông, bố trí mai phục nhiều, rất hoang
mang lo sợ.
Trận Trúc Động là trận chặn địch bảo vệ cho trận địa Bạch Đằng. Trần
Quốc Tuấn không cho địch lọt qua sông Giá. Vì nếu địch qua sông này
thì lực lượng và trận địa bố trí của ta ắt bị lộ, thế chủ động bất ngờ sẽ
không còn nữa. Mặt khác, quân ta còn phải kiềm chế không cho chúng
tiến vào sông Bạch Đằng quá sớm, không đúng với thời gian đã định.

×