Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tìm hiểu Danh tướng Đặng Tiến Đông_1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.32 KB, 7 trang )

Tìm hiểu Danh tướng
Đặng Tiến Đông


Đặng Tiến Đông (1738-?) làm quan thời Lê -Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn
và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của
ông hiện vẫn còn gây nhiều tranh cãi trong giới sử học Việt Nam.

I. Gia tộc:
Theo bộ Đặng gia phổ hệ toàn chính thực lục [1] gồm 6 quyển do chính
Đặng Tiến Đông biên soạn vào đời Tây Sơn (1792) và Ngô Thì Nhậm đề
tựa, thì khi xưa, họ Đặng vốn họ Trần, tương truyền thuộc dòng dõi
Trần Hưng Đạo. Về việc đổi họ, hiện có hai ý kiến:

* Ý kiến thứ nhất cho rằng, vào đầu đời Lê, một người con của họ Trần
là Trần Văn Huy đỗ tiến sĩ, lấy tự là Đặng Hiên, từ đó, con cháu lấy tự
của cha làm họ.
* Ý kiến thứ hai cho rằng, vào năm Tân Mùi (1511) thời vua Lê Tương
Dực, một người con của họ là Trần Tuấn khởi binh chống nhà Lê. Cuộc
khởi nghĩa thất bại, để tránh bị truy sát, con cháu họ Trần kéo về làng
Lương Xá lập nghiệp và đổi sang họ Đặng.

Đến đời thứ 5 của họ Đặng là Đặng Huấn (có tài liệu chép là Đặng Đình
Huấn), ban đầu ông giữ tước quan binh Khổng lý bá nhà Mạc. Năm
1549, ông cùng với Lê Bá Ly quy thuận nhà Lê. Sau nhờ có công giúp
nhà Lê trung hưng nên được phong tới chức Thái úy, tước Nghĩa Quốc
công rồi Hữu Trạch công. Con gái ông lại lấy chúa Trịnh Tùng sinh ra
chúa Trịnh Tráng nên từ đó, họ Đặng trở thành một dòng họ lớn có
nhiều người đỗ đạt và làm quan lớn trong suốt thời Lê-Trịnh.

Nhận xét về họ Đặng, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết: (Họ này) hơn


hai trăm năm vinh hoa rực rỡ, hơn cả các họ công thần. Tục ngữ có câu:
"Đánh giặc họ Hàm, làm quan họ Đặng". [2].

Ở vùng Chương Mỹ còn có đôi câu hát nhắc đến dòng họ Đặng như sau:
Giàu thì Quảng Bị, Bối Khê,
Làm quan Lương Xá, ngoại đê Đại Từ.
Hay:
Bao giờ chợ Chúc hết người,
Sông Ninh hết nước, Đặng này hết quan.

II. Thân thế & sự nghiệp:
Đặng Tiến Đông hay Đặng Tiến Giản [3] sinh ngày 2 tháng 5 năm Mậu
Ngọ (18 tháng 6 năm 1738), tại xã Thịnh Phúc, huyện Phú Xuyên, tỉnh
Hà Tây (nay đã sáp nhập vào Hà Nội).

Ông thuộc chi trưởng dòng họ Đặng, gốc ở làng Lương Xá (nay thuộc xã
Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây cũ), là con trai thứ tám của
Dận Quận Công Đặng Tiến Cẩm (1679-1749) [4] và bà vợ lẽ thứ năm là
Phạm Thị Yến. Ông là con trai thứ 8 trong gia đình. Các anh ông là Đặng
Đình Trí, Đặng Đình Thiệu, Đặng Đình Cầu, Đặng Đình Tự, Đặng Đình
Giám, Đặng Đình Tú và Đặng Đình Hữu đều được phong tước bá, tước
hầu.

Năm 1749, lên 9 tuổi, Đặng Tiến Đông bắt đầu theo học thầy Doãn Xá
tại chùa Thủy Lâm (còn có tên là chùa Lương Xá tại xã Lam Điền,
Chương Mỹ).

Năm 1749, Đặng Tiến Đông 11 tuổi thì mồ côi cha. Mười năm sau, năm
1759, mẹ ông cũng qua đời.


2.1 Làm quan thời Lê-Trịnh:
Năm 1763, Đặng Tiến Đông thi võ đỗ Tạo sĩ và ra làm quan. Năm 1782,
con trưởng chúa Trịnh Sâm là Trịnh Khải dựa vào quân Tam Phủ giành
lại ngôi chúa từ tay em là Trịnh Cán (con của Tuyên phi Đặng Thị Huệ).
Sau khi giết Phụ chính Hoàng Đình Bảo và bắt Tuyên phi, quân Tam Phủ
lùng bắt các quan họ Đặng và họ Hoàng. Anh ông Đông là Đặng Đình
Thiệu cùng 30 người họ Đặng Khác hộ tống Tuyên phi bỏ trốn, bị Trịnh
Khải bắt được và đem xử chém tại xã Nghi Kiều (huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An). Đặng Tiến Đông phải bỏ quan đi trốn để tránh sự truy quét
của chúa Trịnh Khải.

Những năm cuối đời chúa Trịnh (1784) ở Đàng Ngoài triều đình Lê-Trịnh
đổ nát; trong khi đó ở Đàng Trong, Trương Phúc Loan chuyên quyền,
phong trào Tây Sơn do Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cùng
chỉ huy nổi lên tiêu diệt chúa Nguyễn.

2.2 Đầu quân Tây Sơn:
Đến giữa năm 1786, lấy danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ
dẫn quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà, thì giữa năm sau (1787), năm 48 tuổi,
Đặng Tiến Đông đã lặn lội vào tận Quảng Nam, tìm đến quân doanh xin
yết kiến Nguyễn Huệ. Từ đây, thân thế và sự nghiệp của ông bắt đầu
gây nên một cuộc tranh cãi cho giới sử học sau này.

Căn cứ Tông đức thế tự bi (do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận
sắc) dựng trước chùa Thủy Lâm, thôn Lương Xá vào năm 1797, thì ông
"được đón tiếp và đãi ngộ riêng, rồi được tin yêu ban cho ấn kiếm, giao
cho thống lĩnh việc quân."

Cuối năm 1788, vua Càn Long (nhà Thanh, Trung Quốc), thuận theo lời
cầu xin của vua Lê Chiêu Thống, bèn sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ

Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống vị vua trẻ này về lại Thăng
Long. Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của các văn
thần Ngô Thì Nhậm, đã chủ động rút quân về lập phòng tuyến ở Tam
Điệp-Biện Sơn cố thủ chờ lệnh.

Lúc bấy Đô đốc Đặng Tiến Đông đang làm Trấn thủ xứ Thanh Hoa, ngày
đêm lo hỗ trợ việc quân vì phòng tuyến trên vốn thuộc địa phận và hải
phận do mình cai quản.

2.3 Đánh hạ đồn Khương Thượng:
Theo lời kể của GS. Phan Huy Lê, thì ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân
(15 tháng 1 năm 1789), đại quân của vua Quang Trung (tức Nguyễn
Huệ) đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, nhà vua chia quân
ra làm 5 đạo, giao cho Đô đốc Long chỉ huy một đạo gồm quân voi và
quân kỵ mã.

Bắt đầu từ Tam Điệp, Đô đốc Đông cho quân đi theo con đường thượng
đạo qua Phố Cát, ra Thiên Quan (Nho Quan, Ninh Bình), xuyên qua
Chương Đức (tức Chương Mỹ, quê hương ông), đến làng Nhân Mục rồi
rẽ ngang sang Khương Thượng diệt quân Thanh do Sầm Nghi Đống chỉ
huy đang đóng tại khu chùa Bộc cạnh Đống Đa (nay là khu phố Đống Đa,
thành phố Hà Nội).

Trận đánh diễn ra chớp nhoáng, bắt đầu lúc canh tư ngày mồng Năm
Tết Kỷ Dậu và lúc trời chưa sáng thì đánh hạ được đồn, làm cho viên
tướng Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự vẫn ngay tại đài chỉ huy ở Loa Sơn
(thuộc khu vực chùa Bộc).

Ngay sau đó, Đô đốc Đông dẫn quân diệt luôn đồn Nam Đồng, rồi tiến
nhanh về phía cửa Tây thành Thăng Long. Ở cung Tây Long, Tôn Sĩ Nghị

nghe tiếng súng nổ ầm ầm và thấy khói lửa rực trời, vội vàng lên ngựa
lẻn qua cầu phao bắt ngang sông Hồng, nhắm hướng Bắc mà chạy.

Văn thần Phan Huy Ích trong Tông đức thế tự bi đã mô tả lại hình ảnh
oai hùng của Đô đốc Đông lúc ấy như sau: Ông một mình một ngựa tiến
lên trước, dẹp yên nơi cung cấm.

Trưa ngày hôm đó, vua Quang Trung cùng với đại quân tiến vào kinh
thành giữa sự đón chào của Đô Đốc Đông và sự hoan nghênh của nhân
dân. Bài văn bia trên còn ghi rõ sự ban thưởng của nhà vua đối với ông:
Vũ Hoàng Đế vào Thăng Long, tiến hành khen thưởng, ban riêng cho
ông xã quê hương là Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn, phàm các khoản
binh phân, hộ phân, sưu sai đều cho miễn trừ.

Danh sĩ Ngô Ngọc Du, người chứng kiến trận đại thắng trên, đã thuật lại
bằng hai bài thơ, đó là bài "Long thành quang phục kỷ thực" (Ghi lại sự
thật việc khôi phục thành Thăng Long). Trích phần dịch nghĩa:

Bọn giặc vì cớ gì mà điên cuồng đến đây?
Quân của nhà vua phẫn nộ nêu cao uy vũ.
Rồi thần tốc xông thẳng tới,
Như từ trên trời giáng xuống, không ai kháng cự nổi.
Một trận "rồng lửa"[5]làm cho giặc tan tành,
Chúng bỏ thành cướp đò tìm cách chạy trốn

Và bài "Loa Sơn điếu cổ" (trích phần dịch nghĩa):
Thanh Nam xác giặc mười hai đống,
Ngời sáng anh hùng đại võ công.



×