Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tạ Văn Phụng và cuộc khởi binh chống Nguyễn (1861-1865)_2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.64 KB, 8 trang )

Tạ Văn Phụng và cuộc
khởi binh chống Nguyễn
(1861-1865)

Sau khi bị đánh thua ở nhiều nơi, Tạ Văn Phụng buộc phải cho quân lui
về giữ Hải Ninh. Đến tháng 6 (âm lịch) năm ấy, quân Tạ Văn Phụng bị
các tướng là Nguyễn Tri Phương, Phạm Chi Hương, Nguyễn Văn Vĩ,
Mai Thiện cầm quân thủy bộ đến vây đánh.

Tiếp đó (tháng 7 âm lịch), khoảng trăm chiếc tàu của Tạ Văn Phụng
đang neo đậu tại sông Thác Hàn ngoài thành Hải Ninh, cũng bị Đốc binh
Ông Ích Khiêm và Phó vệ úy Phan Đình Thảo hiệp đồng với quan nhà
Thanh ở Khâm Châu là Lý Văn Yên đến đánh. Trận diễn ra vào buổi tối,
đến sáng thì quân triều lấy lại được thành Hải Ninh, đuổi đoàn tàu chiến
(ước chừng 70, 80 chiếc) của quân nổi dậy chạy đến vũng Ngọc Sơn (Đồ
Sơn) Bị truy đuổi, Tạ Văn Phụng cùng tùy tướng tên là Ước (không rõ
họ) lại đem đoàn thuyền chạy vào tới vùng biển Thanh Hóa, Nghệ An.

Bị bắt và bị xử chết
Tháng 8 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), đạo quân thứ Hải Yên do tướng
Nguyễn Tri Phương chỉ huy lại truy đuổi một đội tàu của Tạ Văn Phụng
tại sông Gia Luận thuộc xứ Hà Lai. Tại đây, ông sai Tri huyện Nghiêu
Phong là Nguyễn Hữu Thuận đem binh thuyền đi thăm dò địa phận
sông, thì chợt gặp thuyền Đô thống Hậu quân của quân nổi dậy là Phạm
Văn Khương và Oánh (không rõ họ) nên hô quân bắt được. Sau đó, ông
Oánh bị giết ngay, còn ông Khương thì bị nhốt cũi giải về Kinh đô Huế.

Sang tháng sau (tháng 9 âm lịch), thì đoàn thuyền Tạ Văn Phụng bị
"bang thuyền nước Tàu" đánh tan ở ngoài Hải Ninh và hòn Thảo Dự ở
Quảng Bình. Đến lúc ấy quân nổi dậy, người thì phải bắt, người thì chạy
trốn được. Phần Tạ Văn Phụng và tùy tướng tên là Ước, sau đó cũng bị


bắt sống giải về Huế.

Tháng 10 năm 1865, Tạ Văn Phụng bị xử lăng trì.

Vấn đề liên quan
Có một số tác giả cho rằng Tạ Văn Phụng đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy
có qui mô rộng lớn, chống lại nhà Nguyễn, thu hút đông đảo nhân dân
đói khổ lúc bấy giờ, và đã làm cho triều đình Huế phải lao đao lắm mới
dẹp yên được. Nhưng xu hướng hòa thân với Pháp để lợi dụng Pháp,
cũng như việc liên kết với quân Tàu ô, quân khách (tàn dư của các cuộc
chống Thanh, nhưng đã biến chất. Sử cũ thường gọi họ là: "giặc khách")
đã lái cuộc nổi dậy đi chệch hướng, làm mất dần sự ủng hộ của nhân dân
Việt.

Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng Tạ Văn Phụng không phải là
người chủ xướng việc liên kết mà chỉ là "con bài" của thực dân Pháp,
với sự tiếp tay của các cố đạo. Bởi các phong trào kháng Pháp ở Nam
Kỳ lúc bấy giờ đang dâng cao, khiến họ phải nghĩ tới một giải pháp
chánh trị [5].

Theo sử liệu dẫn trong sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười, thì Tạ
Văn Phụng là một người Việt Nam không rõ nguồn gốc, nhưng đã được
rửa tội và nuôi dưỡng trong trụ sở Giáo hội tại Pinang. Năm 1854, Tạ
Văn Phụng tự xưng là hậu duệ nhà Lê, hô hào một cuộc nổi dậy ở Quảng
Yên. Nhưng sau đó, nghe lời khuyên của giám mục Retord, ông ngưng
hoạt động và ẩn trốn ở Hồng Kông.

Sau khi tàu liên quân Pháp-Tây Ban Nha nả đại bác vào Đà Nẵng (1
tháng 9 năm 1858), giám mục Retord liền nảy ra ý định tạo ra một ông
vua theo đạo Thiên Chúa dưới sự bảo trợ của Pháp, và ông đã nghĩ ngay

đến Tạ Văn Phụng. Tạ Văn Phụng nhận lời trở lại Bắc Kỳ vào giữa năm
1861, rồi phất cờ phù Lê và chọn cố đạo Trường [6] làm mưu sĩ. Chỉ
trong vài tuần lễ, Tạ Văn Phụng chiêu mộ được một đạo quân có hơn hai
vạn.

Đầu năm 1862, trung sĩ Charles Duval bí mật đến Bắc Kỳ, tiếp xúc với
Tạ Văn Phụng với mục đích đẩy mạnh cuộc nội chiến, nhằm gây áp lực
với vua Tự Đức phải nhận ký hòa ước thua thiệt với người Pháp vào
ngày 5 tháng 6 năm 1862 (Hòa ước Nhâm Tuất). Đến đây kể như số
phận của "con bài Tạ Văn Phụng" đã kết thúc, vì thực dân Pháp đã đạt
được thắng lợi trong giải pháp chính trị. Và bất kể tương lai cá nhân của
Tạ Văn Phụng, sau khi làm tròn nhiệm vụ của mình, Ch. Duval đã rời
đất Bắc ngày 17 tháng 7 năm 1863[7].

Ý đồ biến Tạ Văn Phụng thành một ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới
sự bảo trợ của Pháp, cũng đã được linh mục Theurel đề cập đến. Ông
viết:
Nếu các nhóm phản loạn đoàn kết, chúng có hy vọng thành công. Với
ông vua mới này, con cái của chúng ta chắc chắn sẽ có được sự hòa bình
tôn giáo, và dân chúng sẽ theo vua chúng mà theo đạo. Nhưng y chỉ là
một tên giả mạo [8].
Trong bài viết, tác giả Charile Nguyễn cũng cho biết rằng Tạ Văn
Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang. Năm
1858, Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin
giúp đỡ. Sau đó, gián điệp Duval được cử sang Việt Nam với mục đích
biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo. Chính Duval đã đi Macao mua vũ
khí và giúp Văn Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo
dân, rồi lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê mà dấy binh [9].

Chú thích:

[1] Trần Trọng Kim viết: Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên
Trường, đánh phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có
Nguyễn Văn Thịnh (tục gọi Cai tổng Vàng), quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà
trong Nam Kỳ thì lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đình lấy làm lo sợ
lắm, bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng hòa
(Việt Nam sử lược, tr 494).
Còn Phạm Văn Sơn thì kèm theo lời bình như sau: Các vụ loạn ở Bắc
Kỳ (trong đó đáng kể hơn cả là vụ Tạ Văn Phụng), có một điều vô cùng
tai hại là vì nó mà triều đình Tự Đức phải vội vã ký Hòa ước Nhâm Tuất
1862 với Pháp ở Nam Kỳ để rảnh tay đối phó với Bắc Kỳ. Tự Đức nghĩ
rằng có ký với Pháp chăng nữa thì rồi đây lại tìn cơ khôi phục những
tỉnh đã nhượng. Bắc Kỳ bấy giờ có lẽ ở trong một tình trạng khẩn trương
hơn Nam Kỳ bội phần? Việc Tự Đức điều động tướng Nguyễn Tri
Phương và nhiều đại tướng khác ra Bắc Kỳ bấy giờ cũng đủ hiểu (Việt
sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 146, 149 và 162).
[2] Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam chép Tạ Văn Phụng theo
tướng Charles Rigault de Genouilly về đánh Quảng Nam. Sách Việt
Nam sử lược (tr. 502) lại ghi là theo tướng Léonard Charner. Xét thấy,
viên tướng này không mang quân đánh Quảng Nam mà là đánh Gia
Định (trận Đại đồn Chí Hòa).
[3] Theo Lịch sử Việt Nam (1427-1858, tr. 84). Việt Nam sử lược (tr.
503) chép việc này ở vào tháng 3 năm Quý Hợi (1863), tức khi ấy Hòa
ước Nhâm Tuất 1862 đã ký kết xong. Sử gia Phạm Văn Sơn cũng không
ghi rõ khi đề cập đến vấn đề này. Trích: Trước năm 1863, Tạ Văn Phụng
thấy quân triều dốc toàn lực để đối phó với mình nên cho người đi cầu
viện soái phủ Nam Kỳ. Nhưng vì lúc này Pháp quân không dồi dào để
chia xẻ ra Bắc, nghĩa quân lại quấy phá nhiều nơi, và việc hòa giải giữa
Pháp và triều đình Tự Đức sắp xong, nên việc cầu viện của Phụng bị bỏ
rơi. Sử gia tu sĩ A. Launay rất than tiếc vì việc này. Còn P. Cultru thì
cho rằng bấy giờ Pháp có ý nhường đất Bắc cho Tây Ban Nha nên khước

từ. Theo ý chúng tôi, Pháp không có chủ trương như thế, họ chưa ngó
đến Bắc Kỳ bởi họ chưa thanh toán được hết đất đai ở Nam Kỳ mà thôi
(tr. 148).
[4] Việt sử tân biên, tr. 148-149. Quốc triều sử toát yếu chép đoàn
thuyền chiến của Tạ Văn Phụng bị bão đến hai lần. Một tướng thân cận
của Tạ Văn Phụng tên là Độ (không rõ họ) cũng đã chết trong cuộc hành
quân này (tr. 409).

[5] Cùng quan điểm này có nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt
Nam. Trích: Cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng do thực dân Pháp giật dây
thông qua ban tày của các gián điệp đội lốt thầy tu, cốt để triều đình Huế
bối rối vì phải lo đối phó với phong trào ngoài Bắc mà sơ hở và nhượng
bộ chúng trong Nam (Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn
Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục,
2006, tr.30).
[6] Theo tài liệu này thì cố đạo Trường không phải là người Việt, mà là
linh mục Le Grand de Liraye. Sau (ngày 14 tháng 10 năm 1866), cũng
chính ông là người đã cùng đi với Paulin Vial với tư cách là thông ngôn
ra Huế để bức bách vua Tự Đức nhượng luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ
cho Pháp.
[7] Lược theo sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười do Nguyễn
Hữu Hiếu chủ biên. Nhà xuất bản Trẻ và Tạp chí Xưa & Nay hợp tác ấn
hành.
[8] Theo Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn (1883-1945), Tập
1, Houston, 1999, tr. 147.
[9] Charlie Nguyễn, Hồ sơ tội ác Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi
thế kỷ 19 (bản điện tử).

Giải thích một số địa danh có ở trong bài:
-Quảng Yên là một tỉnh cũ ở phía đông Bắc Bộ, được thành lập năm

1831 dưới thời Minh Mạng. Sau này ghép với Hải Ninh thành Quảng
Ninh.
-Định An hay Định Yên gồm Nam Định và Hưng Yên.
-Hải Yên hay Hải An gồm Hải Dương, Quảng Yên.
-Quỳnh Lâu và An Trì (Yên Trì) thuộc tổng Hà Bắc, huyện Yên Hưng,
phủ Hải Đông (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh).
-Vị Dương thuộc tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông.
-Các tổng Hạ Đoàn, Lang Thâm của huyện An Dương, phủ Kinh Môn,
tỉnh Hải Dương thời nhà Nguyễn; huyện An Dương xưa nay là các vùng
đất thuộc quận Lê Chân, quận Ngô Quyền và An Hải của Hải Phòng.
-Hà Lai thuộc huyện Nghiêu Phong, tỉnh Quảng Yên.
-Tổng Hà Nam, thuộc huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, tỉnh Quảng Yên.
-Đảo Phù Long là một đảo lớn kéo dài hơn 60 dặm ở giữa biển, thời
Nguyễn thuộc tổng Hà Liên, huyện Hoa Phong (Nghiêu Phong) tỉnh
Quảng Yên.

×