Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tạ Văn Phụng và cuộc khởi binh chống Nguyễn (1861-1865) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.5 KB, 7 trang )

Tạ Văn Phụng và cuộc
khởi binh chống Nguyễn
(1861-1865)





Bị bắt và bị xử chết
Tháng 8 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), đạo quân thứ Hải Yên do tướng
Nguyễn Tri Phương chỉ huy lại truy đuổi một đội tàu của Tạ Văn Phụng
tại sông Gia Luận thuộc xứ Hà Lai. Tại đây, ông sai Tri huyện Nghiêu
Phong là Nguyễn Hữu Thuận đem binh thuyền đi thăm dò địa phận
sông, thì chợt gặp thuyền Đô thống Hậu quân của quân nổi dậy là
Phạm Văn Khương và Oánh (không rõ họ) nên hô quân bắt được. Sau
đó, ông Oánh bị giết ngay, còn ông Khương thì bị nhốt cũi giải về Kinh
đô Huế.

Sang tháng sau (tháng 9 âm lịch), thì đoàn thuyền Tạ Văn Phụng bị
"bang thuyền nước Tàu" đánh tan ở ngoài Hải Ninh và hòn Thảo Dự ở
Quảng Bình. Đến lúc ấy quân nổi dậy, người thì phải bắt, người thì
chạy trốn được. Phần Tạ Văn Phụng và tùy tướng tên là Ước, sau đó
cũng bị bắt sống giải về Huế.

Tháng 10 năm 1865, Tạ Văn Phụng bị xử lăng trì.

Vấn đề liên quan
Có một số tác giả cho rằng Tạ Văn Phụng đã lãnh đạo một cuộc nổi
dậy có qui mô rộng lớn, chống lại nhà Nguyễn, thu hút đông đảo nhân
dân đói khổ lúc bấy giờ, và đã làm cho triều đình Huế phải lao đao
lắm mới dẹp yên được. Nhưng xu hướng hòa thân với Pháp để lợi


dụng Pháp, cũng như việc liên kết với quân Tàu ô, quân khách (tàn dư
của các cuộc chống Thanh, nhưng đã biến chất. Sử cũ thường gọi họ
là: "giặc khách") đã lái cuộc nổi dậy đi chệch hướng, làm mất dần sự
ủng hộ của nhân dân Việt.

Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng Tạ Văn Phụng không phải
là người chủ xướng việc liên kết mà chỉ là "con bài" của thực dân
Pháp, với sự tiếp tay của các cố đạo. Bởi các phong trào kháng Pháp ở
Nam Kỳ lúc bấy giờ đang dâng cao, khiến họ phải nghĩ tới một giải
pháp chánh trị [5].

Theo sử liệu dẫn trong sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười, thì Tạ
Văn Phụng là một người Việt Nam không rõ nguồn gốc, nhưng đã
được rửa tội và nuôi dưỡng trong trụ sở Giáo hội tại Pinang. Năm
1854, Tạ Văn Phụng tự xưng là hậu duệ nhà Lê, hô hào một cuộc nổi
dậy ở Quảng Yên. Nhưng sau đó, nghe lời khuyên của giám mục
Retord, ông ngưng hoạt động và ẩn trốn ở Hồng Kông.

Sau khi tàu liên quân Pháp-Tây Ban Nha nả đại bác vào Đà Nẵng (1
tháng 9 năm 1858), giám mục Retord liền nảy ra ý định tạo ra một
ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới sự bảo trợ của Pháp, và ông đã
nghĩ ngay đến Tạ Văn Phụng. Tạ Văn Phụng nhận lời trở lại Bắc Kỳ
vào giữa năm 1861, rồi phất cờ phù Lê và chọn cố đạo Trường [6] làm
mưu sĩ. Chỉ trong vài tuần lễ, Tạ Văn Phụng chiêu mộ được một đạo
quân có hơn hai vạn.

Đầu năm 1862, trung sĩ Charles Duval bí mật đến Bắc Kỳ, tiếp xúc với
Tạ Văn Phụng với mục đích đẩy mạnh cuộc nội chiến, nhằm gây áp
lực với vua Tự Đức phải nhận ký hòa ước thua thiệt với người Pháp
vào ngày 5 tháng 6 năm 1862 (Hòa ước Nhâm Tuất). Đến đây kể như

số phận của "con bài Tạ Văn Phụng" đã kết thúc, vì thực dân Pháp đã
đạt được thắng lợi trong giải pháp chính trị. Và bất kể tương lai cá
nhân của Tạ Văn Phụng, sau khi làm tròn nhiệm vụ của mình, Ch.
Duval đã rời đất Bắc ngày 17 tháng 7 năm 1863[7].

Ý đồ biến Tạ Văn Phụng thành một ông vua theo đạo Thiên Chúa dưới
sự bảo trợ của Pháp, cũng đã được linh mục Theurel đề cập đến. Ông
viết:
Nếu các nhóm phản loạn đoàn kết, chúng có hy vọng thành công. Với
ông vua mới này, con cái của chúng ta chắc chắn sẽ có được sự hòa
bình tôn giáo, và dân chúng sẽ theo vua chúng mà theo đạo. Nhưng y
chỉ là một tên giả mạo [8].
Trong bài viết, tác giả Charile Nguyễn cũng cho biết rằng Tạ Văn
Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang. Năm
1858, Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin
giúp đỡ. Sau đó, gián điệp Duval được cử sang Việt Nam với mục đích
biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo. Chính Duval đã đi Macao mua
vũ khí và giúp Văn Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là
giáo dân, rồi lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê mà dấy binh [9].

Chú thích:
[1] Trần Trọng Kim viết: Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên
Trường, đánh phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có
Nguyễn Văn Thịnh (tục gọi Cai tổng Vàng), quấy nhiễu ở Bắc Ninh,
mà trong Nam Kỳ thì lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đình lấy làm lo
sợ lắm, bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng
hòa (Việt Nam sử lược, tr 494).
Còn Phạm Văn Sơn thì kèm theo lời bình như sau: Các vụ loạn ở Bắc
Kỳ (trong đó đáng kể hơn cả là vụ Tạ Văn Phụng), có một điều vô
cùng tai hại là vì nó mà triều đình Tự Đức phải vội vã ký Hòa ước

Nhâm Tuất 1862 với Pháp ở Nam Kỳ để rảnh tay đối phó với Bắc Kỳ.
Tự Đức nghĩ rằng có ký với Pháp chăng nữa thì rồi đây lại tìn cơ khôi
phục những tỉnh đã nhượng. Bắc Kỳ bấy giờ có lẽ ở trong một tình
trạng khẩn trương hơn Nam Kỳ bội phần? Việc Tự Đức điều động
tướng Nguyễn Tri Phương và nhiều đại tướng khác ra Bắc Kỳ bấy giờ
cũng đủ hiểu (Việt sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 146, 149 và 162).
[2] Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam chép Tạ Văn Phụng theo
tướng Charles Rigault de Genouilly về đánh Quảng Nam. Sách Việt
Nam sử lược (tr. 502) lại ghi là theo tướng Léonard Charner. Xét thấy,
viên tướng này không mang quân đánh Quảng Nam mà là đánh Gia
Định (trận Đại đồn Chí Hòa).
[3] Theo Lịch sử Việt Nam (1427-1858, tr. 84). Việt Nam sử lược (tr.
503) chép việc này ở vào tháng 3 năm Quý Hợi (1863), tức khi ấy
Hòa ước Nhâm Tuất 1862 đã ký kết xong. Sử gia Phạm Văn Sơn cũng
không ghi rõ khi đề cập đến vấn đề này. Trích: Trước năm 1863, Tạ
Văn Phụng thấy quân triều dốc toàn lực để đối phó với mình nên cho
người đi cầu viện soái phủ Nam Kỳ. Nhưng vì lúc này Pháp quân
không dồi dào để chia xẻ ra Bắc, nghĩa quân lại quấy phá nhiều nơi,
và việc hòa giải giữa Pháp và triều đình Tự Đức sắp xong, nên việc
cầu viện của Phụng bị bỏ rơi. Sử gia tu sĩ A. Launay rất than tiếc vì
việc này. Còn P. Cultru thì cho rằng bấy giờ Pháp có ý nhường đất Bắc
cho Tây Ban Nha nên khước từ. Theo ý chúng tôi, Pháp không có chủ
trương như thế, họ chưa ngó đến Bắc Kỳ bởi họ chưa thanh toán được
hết đất đai ở Nam Kỳ mà thôi (tr. 148).
[4] Việt sử tân biên, tr. 148-149. Quốc triều sử toát yếu chép đoàn
thuyền chiến của Tạ Văn Phụng bị bão đến hai lần. Một tướng thân
cận của Tạ Văn Phụng tên là Độ (không rõ họ) cũng đã chết trong
cuộc hành quân này (tr. 409).

[5] Cùng quan điểm này có nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt

Nam. Trích: Cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng do thực dân Pháp giật
dây thông qua ban tày của các gián điệp đội lốt thầy tu, cốt để triều
đình Huế bối rối vì phải lo đối phó với phong trào ngoài Bắc mà sơ hở
và nhượng bộ chúng trong Nam (Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-
Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2). Nhà xuất bản
Giáo Dục, 2006, tr.30).
[6] Theo tài liệu này thì cố đạo Trường không phải là người Việt, mà
là linh mục Le Grand de Liraye. Sau (ngày 14 tháng 10 năm 1866),
cũng chính ông là người đã cùng đi với Paulin Vial với tư cách là thông
ngôn ra Huế để bức bách vua Tự Đức nhượng luôn ba tỉnh miền Tây
Nam Kỳ cho Pháp.
[7] Lược theo sách Võ Duy Dương với Đồng Tháp Mười do Nguyễn Hữu
Hiếu chủ biên. Nhà xuất bản Trẻ và Tạp chí Xưa & Nay hợp tác ấn
hành.
[8] Theo Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn (1883-1945), Tập
1, Houston, 1999, tr. 147.
[9] Charlie Nguyễn, Hồ sơ tội ác Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi
thế kỷ 19 (bản điện tử).

Giải thích một số địa danh có ở trong bài:
-Quảng Yên là một tỉnh cũ ở phía đông Bắc Bộ, được thành lập năm
1831 dưới thời Minh Mạng. Sau này ghép với Hải Ninh thành Quảng
Ninh.
-Định An hay Định Yên gồm Nam Định và Hưng Yên.
-Hải Yên hay Hải An gồm Hải Dương, Quảng Yên.
-Quỳnh Lâu và An Trì (Yên Trì) thuộc tổng Hà Bắc, huyện Yên Hưng,
phủ Hải Đông (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh).
-Vị Dương thuộc tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông.
-Các tổng Hạ Đoàn, Lang Thâm của huyện An Dương, phủ Kinh Môn,
tỉnh Hải Dương thời nhà Nguyễn; huyện An Dương xưa nay là các

vùng đất thuộc quận Lê Chân, quận Ngô Quyền và An Hải của Hải
Phòng.
-Hà Lai thuộc huyện Nghiêu Phong, tỉnh Quảng Yên.
-Tổng Hà Nam, thuộc huyện Yên Hưng, phủ Hải Đông, tỉnh Quảng
Yên.
-Đảo Phù Long là một đảo lớn kéo dài hơn 60 dặm ở giữa biển, thời
Nguyễn thuộc tổng Hà Liên, huyện Hoa Phong (Nghiêu Phong) tỉnh
Quảng Yên.

×