Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sự hình thành và phát triển của thơ hiện đại Trung Quốc _1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.03 KB, 7 trang )

Sự hình thành và phát
triển của thơ hiện đại
Trung Quốc




Cùng xu thế phát triển ngày càng mạnh của thơ tự do, bởi thể thức của loại thơ này
đã không còn bị tiết chế, dẫn đến hiện tượng dễ dãi, buông tuồng, tản mạn cùng rất nhiều
bất cập nảy sinh. Đây chính là nhu cầu tất yếu cần phải luật hóa thơ mới, cũng là nguyên
nhân chính cho sự ra đời của thi phái Tân Nguyệt. Vào năm 1926, tờ Thần Báo tại Bắc
Kinh dưới sự chủ trì của tập thể các nhà thơ gồm Văn Nhất Đa, Từ Chí Ma, Chu Tương,
Lưu Mộng Vĩ…đã cho ấn hành thêm tờ Thi tuyên, tiếp đó lại cho ra đời hai tờ Tân
Nguyệt và Thi khán. Cùng quá trình tồn tại và phát triển của ba tạp chí nêu trên, một đội ngũ
các nhà thơ có quan niệm gần nhau về nghệ thuật đã được bồi dưỡng và tụ họp lại, với tên
gọi Tân Nguyệt, thi phái này là nơi tập trung của các nhà thơ mang chí nguyện sáng lập
cách luật cho thơ mới. Đại biểu cho thành tựu của phái này trước hết phải kể đến Từ Chí
Ma với các tập thơ Chí Ma đích thi, Phỉ lãnh thúy đích nhất dạ…; kế đến là Văn Nhất Đa
với các tập Hồng chúc, Tử thủy…, Chu Tương với các tập Hạ thiên, Thảo mãng tập, Thạch
môn tập… Ngoài ra, còn có sự góp mặt của nhiều tên tuổi khác như Tôn Đại Vũ, Nhiêu
Mạnh Khản, Thiệu Tuân Mỹ, Thẩm Tùng Văn, Trần Mộng Gia, Phương Vĩ Đức, Lâm Huy
Âm…, những người này đều là thành viên của Tân Nguyệt thi phái.
Cuối thập kỷ 20, xu thế viết thơ theo lối tượng trưng bắt đầu được các nhà thơ Trung
Quốc quan tâm. Lý Kim Phát được coi là người đầu tiên có ý thức trong việc đưa phương
pháp sáng tác thơ của chủ nghĩa tượng trưng Pháp vào các tác phẩm thơ của mình. Với ba tập
thơ Vi vũ, Vị hạnh phúc nhi ca, Thực khách dữ hung niên kế tiếp nhau ra đời, Lý Kim Phát
thực sự là người có công lớn trong việc đặt nền móng thơ ca tượng trưng tại Trung Quốc.
Thơ Lý Kim Phát hình ảnh mới lạ, thậm chí khó hiểu, nhưng thông qua hệ thống hình ảnh
này, độc giả vẫn cảm nhận được chất sầu cảm được biểu đạt rất Tây của tác giả thấm đẫm
qua từng câu thơ, bài thơ. Nội dung chủ yếu trong thơ ông là vấn đề sinh tử, ông chú ý nhiều
đến những mảng đề tài tăm tối, đầy chất bi kịch của cuộc sống. Điểm quan trọng trong


phương thức biểu đạt của thơ Lý Kim Phát là, ông đặc biệt chú trọng sử dụng những ẩn dụ
giàu tính ám thị, thông qua chất huyễn ảo mà những dòng thơ đa nghĩa mang lại, tác giả
mong muốn tái hiện hiện thực nhân sinh trong những mối quan hệ đa diện, phức tạp và đầy
uẩn ước. Sau Lý Kim Phát, các nhà thơ thuộc giai đoạn hậu kỳ của thi phái Sáng Tạo như
Mục Mộc Thiên, Phùng Nãi Siêu, Vương Độc Thanh, Diêu Bồng Tử… bắt đầu có sự chuyển
hướng trong sáng tác. Những người này đưa ra khái niệm “thuần thi” với chất duy mỹ thấm
đẫm, tính nhạc cùng vẻ đẹp về mặt hình thức của thơ cũng được nhấn mạnh, đặc biệt theo họ
thơ cần tạo cho được tĩnh giới hàm súc, mông lung.
Cùng chịu ảnh hưởng của thơ ca tượng trưng Pháp, nhưng Đới Vọng Thư được mọi
người biết đến khá muộn. Tháng 8 năm 1928, khi Diệp Thánh Đào biên tập Tiểu thuyết
nguyệt báo, trong đó cho đăng tải bài thơ Vũ hạng của ông, ông mới được mọi người biết
đến. Lại do chỉ với Vũ hạng, ông đã thành danh, nên người trong giới quen gọi ông là “Vũ
hạng thi nhân”. Với không gian thơ là một ngõ hẻm u tịch, xa xăm, chìm trong mưa, cùng
hình ảnh một cô gái mang nỗi buồn u uất tựa nhành đinh hương, Vũ hạng thực sự đã tạo ra
một không gian thơ với chất mông lung cùng nỗi u sầu thấm đẫm, đó đồng thời là sự phản
ánh tâm thái phiêu linh bất định cùng sự giằng co về mặt tâm lý trong lòng tác giả. Về mặt
hình thức, Diệp Thánh Đào tiên sinh bình Vũ hạng viết: bài thơ này “mở ra một kỷ nguyên
mới về mặt tiết tấu cho thơ mới”, lời bình này chứng tỏ phương thức trữ tình của Vũ
hạng đương thời rất mới, đồng thời cũng là sự khẳng định tính phi truyền thống trong vẻ
đẹp đến từ âm nhạc của tác phẩm. Nhưng sau Vũ hạng, quan niệm về thơ của Đới Vọng
Thư có sự chuyển biến, ông cho rằng, thơ ca không nên quá coi trọng vẻ đẹp đến từ âm
nhạc và hội họa, vận luật của thơ cũng không nên thể hiện nơi con chữ, mà nên biểu hiện ở
chỗ bổng trầm, ngừng ngắt của tình cảm. Có thể thấy rõ, bắt đầu từ Ngã đích ký ức, tiết tấu
bề mặt thể hiện nơi con chữ đã được tác giả chuyển sang tiết tấu tình cảm nội tại, đây cũng
là điểm quan trọng nhất trong việc chuyển hướng sang lối thơ hiện đại của tác giả.
Vào năm 1932, tạp chí Hiện đại ấn bản, sự ra đời của tạp chí này đã tụ họp được một
nhóm các nhà thơ, với tên gọi chung “Hiện Đại phái”. Tên gọi này thực ra chỉ mang nghĩa
tương đối, vì phần lớn tác phẩm của họ đều học theo thi phái tượng trưng, chỉ có điều là, so
với Lý Kim Phát, thơ của họ khoẻ khoắn hơn, đồng thời cũng rũ bỏ được chất Âu hóa trong
ngôn ngữ thơ. Họ chủ trương vứt bỏ những rườm rà, bó buộc bề ngoài của thơ mới đã được

hình thành từ thi phái Tân Nguyệt đến thi phái tượng trưng, chú trọng vào khai thác những
yếu tố nội tại, phát hiện và biểu đạt những vui buồn, cay đắng ngọt bùi của nhân sinh, đặc
biệt trong thơ họ thích dùng thủ pháp ám dụ nhằm chuyển tải sinh động những uẩn khúc
của nội tâm. Các nhà thơ của phái này thường mang tâm lý chán ghét hiện thực, chán ghét
cuộc sống sinh hoạt luôn tấp nập hối hả chốn thị thành, thể hiện sự lạc lõng, niềm bi ai của
cái tôi cá nhân trong xã hội đang trên đà công nghiệp hóa. Một khi tâm lý tác giả bị hiện
thực xã hội kích phát, làm nảy sinh sự thăng hoa của cảm xúc, họ sẽ dùng cách biểu đạt
nghệ thuật độc đáo của mình viết ra những dòng thơ tích cực, kiểu như các thi phẩm Đoạn
chỉ, Ngã dụng tàn tổn đích thủ chưởng của Đới Vọng Thư. Đại biểu của phái này ngoài Đới
Vọng Thư, Biện Chi Lâm, còn có các tên tuổi như Hà Kỳ Phương, Tào Bảo Hoa, Từ Trì,
Kim Khắc Mộc, Lâm Canh, Phế Danh (Phùng Văn Bỉnh), Lý Quảng Điền…, riêng Ngải
Thanh, những tác phẩm sáng tác ở giai đoạn đầu của ông cũng chịu ảnh hưởng đậm nét từ
thi phái này.
Tóm lại, bằng sự đa dạng về trường phái, phong cách thơ cùng tồn tại và không
ngừng cạnh tranh, có thể thấy rõ, vào khoảng những năm cuối thập niên 20, đầu thập niên
30, thơ mới Trung Quốc đã đạt đến độ đa dạng, phong phú chưa từng có. Đi cùng xu thế
diễn tiến của lịch sử, thơ mới Trung Quốc ở các giai đoạn sau thể hiện sự không ngừng nắm
bắt hiện thực cuộc sống cùng quá trình hoàn thiện không ngừng của nó ở phương diện nghệ
thuật.
III. Trào lưu thơ ca cách mạng và phong trào thơ mới những năm 40
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, cả mâu thuẫn giai cấp lẫn mâu thuẫn dân tộc tại
Trung Quốc đều đạt đến đỉnh điểm, điều này không những để lại dấu ấn sâu sắc trong tư
tưởng của tầng lớp trí thức trong xã hội, đồng thời cũng ảnh hưởng đến xu hướng phát triển
của văn học hiện đại Trung Quốc, trong đó có thơ mới. Trong thập niên này, ngoài thơ ca của
phái Hiện Đại đã được giới thiệu trên đây, thì những dòng thơ hiện thực với nội dung luôn
trung thành với lý tưởng của dân tộc, của nhân dân, xứng đáng được coi là thành tựu tiêu biểu
của thơ ca ở giai đoạn này. Năm 1930, Liên minh các nhà văn cánh tả Trung Quốc, gọi tắt là
Tả Liên thành lập, sự kiện này đánh dấu truyền thống hiện thực chủ nghĩa trong thơ mới
chính thức được xác lập. Với một loạt những bài thơ hừng hực khí thế chiến đấu cùng lời
hiệu triệu quần chúng đứng dậy đấu tranh liên tục đăng tải trên các báo Thác hoang

giả, Manh nha nguyệt khán, Bắc đẩu…, cuộc vận động vì một nền thơ ca đại chúng hóa, thơ
ca với nhiệm vụ thiêng liêng gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp, của dân tộc, của đất nước
của các nhà thơ thuộc Tả Liên chính thức được triển khai. Từ Phùng Nãi Siêu, Tưởng Quang
Từ, Tiền Hạnh Thôn, Hồ Dã Tần, Hồng Linh Phi cho đến Ân Phu, hình ảnh người chiến sĩ
cộng sản luôn được tái hiện thống nhất theo khuynh hướng ca tụng. Đặc biệt thơ của Ân Phu,
với hình ảnh mới mẻ, chất tình cảm trong ngôn ngữ thấm đẫm, cộng thêm tư thế luôn sẵn
sàng tiến quân của tác giả, không chỉ là nguồn động viên to lớn, còn là sức mạnh đấu tranh
chống lại mọi thế lực hắc ám, đồng thời cũng là sự kết tinh cao độ của nghệ thuật. Lỗ Tấn
cho rằng, thơ Ân Phu “là ánh hừng đông le lói, là âm vang của mũi tên trong rừng vắng, là
mầm non cuối đông, là bước tiến quân đầu tiên”
(1)
. Như vậy, từ dòng thơ cách mạng thấm
đẫm chất lãng mạn do Quách Mạt Nhược khai sáng, phát triển đến Ân Phu, đã có sự thay đổi
khá lớn về chất.
Tháng 9 năm 1932, tại Thượng Hải, trên cơ sở là các nhà thơ thuộc Tả Liên, Hội thi
ca Trung Quốc (Trung Quốc thi ca hội) thành lập, lực lượng nòng cốt ban đầu có Bồ Phong,
Mục Mộc Thiên, Dương Tao, Sâm Bảo… Tháng 2 năm 1933, Hội cho ra mắt tờ Tân thi ca,
tờ này ban đầu mỗi tuần ra một số, sau đổi thành bán nguyệt san và sau đó là nguyệt san.
Lại do Hội còn lập phân hội tại Bắc Kinh, Quảng Châu, Thanh Đảo, Thiên Tân, Hồ Châu,
thế nên số lượng các nhà thơ tham gia rất đông, những tên tuổi trong làng thơ đương thời
như Liễu Sai, Vương Á Bình, Hồ My, Kỳ Ngọc, Ôn Lưu, Trần Tàn Vân, Viên Bột… đều là
hội viên thuộc hội này. Tháng 4 năm 1937, với mục tiêu khuyếch trương tổ chức, nhằm
phục vụ tốt hơn nhu cầu bức thiết của cuộc kháng chiến chống Nhật, hơn 70 nhà thơ đến từ
09 đoàn thể hoạt động thơ trong cả nước đã nhóm họp, quyết định thành lập Hiệp hội thi ca
Trung Quốc, đại đa số các nhà thơ thuộc Hội thi ca Trung Quốc đã tham gia vào tổ chức
này, như vậy Hội thi ca Trung Quốc cũng chính thức giải tán từ đây.
Chiến tranh bùng nổ càng làm quá trình dung hợp giữa phong cách cá nhân và xu
hướng đại chúng hóa của thơ mới Trung Quốc diễn ra nhanh hơn. Đứng trước bi kịch thời
đại cùng sự lâm nguy của vận mệnh dân tộc, phần đông các nhà thơ đều tự giác lấy thơ ca
làm vũ khí chiến đấu, đồng thời hòa mình vào cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.

Chính từ đây, một trào lưu sáng tác thơ theo xu hướng đi vào dân gian, phát hiện và ca tụng
những vẻ đẹp, những tấm gương sáng trong cuộc sống học tập và chiến đấu ra đời. Điền
Gian, nhà thơ với biệt danh “tay trống thời đại”, bằng những dòng thơ ngắn đầy tính chiến
đấu cùng sức mạnh to lớn trong việc kêu gọi, cổ vũ nhân dân đứng lên tranh đấu, có thể coi
là những thanh âm mạnh mẽ nhất, có tầm lan tỏa rộng nhất ở giai đoạn này. Vào năm 1939,
sau khi Ngải Thanh cho ra đời tập thơ thứ hai của mình Bắc phương cùng tác phẩm thơ
dài Hướng thái dương, người ta không thể không công nhận rằng: nhà thơ đỉnh cao của
dòng thơ cách mạng cuối cùng cũng đã xuất hiện. Thơ Ngải Thanh là sự dung hợp cao độ
giữa “đại chúng” và “cá nhân”, từ những rung động của tiếng lòng, tác giả đã xướng lên
những cung bậc mang đậm tình yêu quê hương, đất nước, yêu nhân dân; không chỉ có vậy,
trong thơ Ngải Thanh, thể thơ tự do được vận dụng một cách nhuần nhuyễn và tự nhiên,
điều này chứng tỏ, đến Ngải Thanh, thể thơ mới tự do đã phát triển đến giai đoạn thành
thục.
Như vậy, trải qua hơn hai mươi năm không ngừng tìm tòi và phát triển, bước sang
thập niên 40, thơ mới Trung Quốc đã bước vào giai đoạn thành thục cả về nội dung lẫn hình
thức. Thời kỳ này, đất nước vẫn trong tình trạng tạm thời bị chia cắt. Vùng giải phóng, dưới
sự kiểm soát của Đảng cộng sản Trung Quốc, thơ ca mang tính định hướng rõ rệt, tức thơ
ca phát triển theo khuynh hướng hiện thực xã hội xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh hai khía
cạnh hiện thực và ca tụng. Cuộc chiến tranh vệ quốc vừa đi qua, nhân dân Trung Quốc say
sưa trong chiến thắng, thế nên đây cũng là thời kỳ ra đời của hàng loạt những tác phẩm thơ
tự sự trường thiên, nhằm ghi chép, tổng kết lại tiến trình đấu tranh tuy gian khổ mà hào
hùng và kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang của cả dân tộc. Người ta thống kê được, chỉ trong
thập niên 40, có tới trên 30 bài thơ có độ dài trên 1000 câu viết theo xu hướng nói trên,
trong đó nổi tiếng nhất có thể kể đến Vương Quý dữ Lý Hương Hương của Lý Quý, Kiếm
bắc thiên của Lão Xá, Cổ thụ đích hoa toả của Tang Khắc Gia…
Ở vùng do Quốc dân đảng kiểm soát, đồng thời xuất hiện hai thi phái, đó là Thất
Nguyệt và Cửu Diệp. Thi phái Thất Nguyệt do nhà lý luận kiêm nhà thơ Hồ Phong chủ trì,
với đội ngũ đông đảo các nhà thơ tham gia như Lục Nguyên, A Lũng, Tăng Trác, Lỗ Lê,
Tôn Điền, Ký Phưởng, Bành Yến Giao, Đỗ Cốc, Ngưu Hán, Lỗ Môi, Hoá Thiết, La Lạc,
Từ Phóng, Phương Nhiên, Lỗ Điện, Trịnh Tứ, Chung Tuyên, Hồ Trưng, Chu Kiện, Chu

Cốc Hoài… đây cũng là những nhà thơ thường xuyên có thơ đăng trên Thất nguyệt, Hy
vọng, Thất nguyệt thi tùng do chính Hồ Phong chủ biên. Phần lớn các nhà thơ thuộc phái
này đều chịu ảnh hưởng sâu đậm từ phong cách thơ Ngải Thanh, trong thơ họ, chức năng
chiến đấu của thơ luôn được đề cao, chủ trương đấu tranh thể hiện trong xu hướng thẩm mỹ
của tác phẩm luôn thống nhất cùng ý thức trách nhiệm đối với xã hội của mỗi cá nhân nhà
thơ; thêm vào đó là giọng thơ vừa mộc mạc chân thành, vừa tự nhiên dễ hiểu, những dòng
thơ họ viết ra nhằm ngợi ca cuộc sống mới nhìn chung đều mới mẻ và độc đáo.
Thi phái Cửu Diệp hình thành vào cuối những năm 40, trận địa chủ yếu của phái này
là hai tờ Thi sáng tạo, bắt đầu phát hành vào tháng 7 năm 1947 và Trung Quốc tân thi, bắt
đầu ấn bản vào tháng 6 năm 1948. Đại biểu của phái có thể kể đến một số nhà thơ như Tân
Địch, Mục Đán, Trịnh Mẫn, Đỗ Vận Tiếp, Trần Kính Dung, Hàng Ước Hách (Tào Tân
Chi), Đường Kỳ, Đường Thực, Viên Khả Gia. Thi phái này trong quá khứ từng được gọi
tên “Hiện Đại thi phái” hoặc “Tân Hiện Đại thi phái”, mãi đến năm 1981, sau khi Giang Tô
Nhân dân xuất bản xã xuất bản tuyển tập thơ của chín nhà thơ thuộc thập niên 40, lấy
tên Cửu diệp tập, tên gọi Cửu Diệp mới chính thức định hình. Các nhà thơ thuộc phái này
trừ Tân Địch và Trần Kính Dung đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ trước kháng chiến, còn
lại đều là các nhà thơ xuất thân từ học sinh, sinh viên trưởng thành trong kháng chiến. Với
tư cách một thi phái ra đời vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, các nhà thơ phái Cửu
Diệp đã không ngừng cố gắng, nỗ lực, để đem đến cho thơ mới Trung Quốc thêm một lần
thử nghiệm và sáng tạo. Sự xuất hiện và tồn tại của Cửu Diệp hoàn toàn không đơn thuần
chỉ là một thi phái bình thường, việc họ biết tiếp nhận, dung hội và sáng tạo trên cơ sở lý
luận thơ ca của chủ nghĩa hiện đại phương Tây, biết kế thừa và phát huy những tinh hoa
trong truyền thống thi ca Trung Quốc, tất cả những việc làm ấy đều là những bài học,
những kinh nghiệm quý báu cho thơ mới Trung Quốc trên con đường hiện đại hóa ở những
giai đoạn sau

×