1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
VB2 CQ - K15 - KIỂM TOÁN VB2K15
Bộ Môn :
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Bài Tiểu Luận Số 6 :
Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa
tỷ giá hối đoái và lãi suất
G
VH
D:
TRƯƠNG MINH TU
Ấ
N
Sinh Viên: Trần Thị Nga
Huỳnh Minh Thư
Phan Quốc Hưng
Trần Anh Kiệt
Nguyễn Thành Đạt
TP.HCM, Tháng 10 năm 2012
2
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các
công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạch
định của nền kinh tế. Sự khập khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể
gây ra những hậu quả bất lợi như: nội tệ bị mất giá gây nguy cơ lạm phát
“chảy máu” ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu tư nước
ngoài…Vì vậy, trong quản lý vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá phải được
xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng
thời kỳ nhất định.
Điều hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá là một kỹ thuật
vi diệu, vì rằng hai biến số này bị tác động bởi nhiều yếu tố như tình hình
xuất, nhập khẩu, lạm phát, đầu tư nước ngoài, chính sách, kinh tế, tài chính
của chính phủ, các yếu tố tâm lý… Trong quá trình vận hành hai biến số này
tác động ngược lại nhằm thúc đẩy hoặc kiềm chế sự phát triển của các yếu tố
trên các yếu tố tác động đến quá trình hình thành và lãi suất và tỷ giá là kết
quả hàng loạt quá trình tương tác khác nhau. Vai trò, phương thức, cường độ
của từng yếu tố lại phụ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh cụ thể của mỗi
nước và thay đổi theo từng giai đoạn phát triển. Như vậy, sự thay đổi của lãi
suất và tỷ giá tùy thuộc rất nhiều yếu tố, các yếu tố lại thường đan xen vào
nhau và tùy thuộc lẫn nhau ở một thời điểm cụ thể, tình hình cụ thể, sẽ có
yếu tố nổi bật là nguyên nhân làm thay đổi lãi suất và tỷ giá và cũng có yếu
tố trở thành hệ quả của sự thay đổi lãi suất và tỷ giá. Chính mối quan hệ biện
chứng này làm cho việc điều hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ
giá trở nên khó khăn, phức tạp. Vai trò của lãi suất và tỷ giá như là những
công cụ tích cực trong phát triển kinh tế, đồng thời là những công cụ kềm
hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay vụng về
trong việc sử dụng chúng.
Nhóm em xin được trình bày về đề tài “
mối quan hệ giữa tỷ giá
hối đoái và lãi suất
“. Với kiến thức còn nhiều thiếu sót , cơ sở số liệu
thống kê không đầy đủ và tính phức tạp của đề tài nên trong bài viết không
tránh khỏi khiếm khuyết rất mong được sự góp ý của các thầy giáo cô giáo
và các bạn.
3
I. Tỷ giá hối đoái
1. Khái niệm
Khối lượng thương mại quốc tế đã tăng lên trong suốt bốn mươi năm
qua làm cho các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau.trong xu hướng
toàn cầu hoá dần xoá nhoà các đường biên giới quốc gia và làm cho các
dòng tư bản lưu chuyển linh hoạt hơn.trong quá trình đó , mỗi quốc gia đều
cố gắng đưa đồng nội tệ có thể chuyển đổi và tìm kiếm một chính sách tỷ giá
thích hợp.
Vậy tỷ giá bắt đầu xuất hiện khi có thương mại quốc tế . Nó là mức
giá giữa hai nước mà tại đó họ trao đổi với nhau.
+ Tỷ giá hối đoái danh nghĩa : là giá cả của một đồng tiền nước này tính theo
đơn vị tiền tệ nước khác. Hiện nay trên thế giới có hai phương pháp niêm yết
tỷ giá là phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp .
*Phương pháp gián tiếp : ký hiệu e , là phương pháp biểu hiện một
đơn vị nội tệ bằng các đơn vị ngoại tệ .
Ví dụ: Tại thị trường hối đoái London yết giá 1bảng Anh=1,6191 đôla Mỹ
*Phương pháp trực tiếp : ký hiệu E , là phương pháp tỷ giá hối đoái
của đồng ngoại tệ .Nó chính là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo số đơn
vị nội tệ.
+ Tỷ giá hối đoái thực tế: là giá tương đối của hàng hoá ở hai nước
Nếu tỷ giá hối đoái thực tế cao , hàng ngoại tương đối rẻ và hàng nội
tương đối đắt và ngược lại
+ Cơ chế xác định tỷ giá : tuỳ thuộc vào chính sách tỷ giá mỗi quốc gia
C1. Cơ chế thị trường : tỷ giá cũng là một loại giá cả, nó được xác
định dựa trên các lực lượng cung cầu nội ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Thị trường ngoại hối là nơi mua bán trao đổi đồng nội và ngoại tệ.
-
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá
+ Các nhân tố thuộc về dài hạn :
4
*Mức giá cả tương đối : Về lâu dài một sự tăng lên mức giá của một
nước (tương đối so với mức giá nước khác )làm cho đồng tiền nước đó giảm
giá và một sự giảm giá xuống của mức giá tương đối làm cho đồng tiền
nước đó tăng giá .
*Thuế và Cô-ta: Đây là hàng rào đối với hàng nhập khẩu và bảo hộ
hnàg sản xuất trong nước .
* Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại : Một sự ưa thích hàng ngoại
làm tăng cầu về ngoại tệ khiến cho cung nội tệ tăng dịch chuyển và giá đồng
nội tệ giảm xuống .
* Năng suất lao động : Năng suất lao động cao làm giá hàng của một
nước rẻ tương đối so với các nước khác . Cầu hàng xuất nước đó cao lên kéo
theo sự tăng giá của đồng tiền nước đó.
*Yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến tỷ giá : Phần lớn các nước đang
phát triển đều phải đối mặt với tình trạng “Đôla hoá” trong nền kinh tế.
*Tỷ lệ lạm phát
*Cán cân thương mại: Nó liên quan đến hoạt động xuất nhập
khẩu .Xuất khẩu lớn tỷ giá lên giá
+ Các nhân tố thuộc về ngắn hạn
*Lãi suất : Lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều
chỉ tiêu khác nhau trong đó tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ hết sức chặt chẽ
với nhau. Trong một nước nếu lãi suất nội tệ tăng trong khi lãi suất thế giới
ổn định sẽ làm cho các luồng vốn quốc tế đổ vào nhiều vì mức lãi suất quá
hấp dẫn . Do vậy cầu tiền nước này tăng lên và tỷ giá tăng theo .
* Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức
cung- cầu về ngoại tệ trên thị trường ,do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ
giá hối đoái . Bội thu cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và bội chi
cán cânthanh toán sẽ làm cho tỷ giá tăng
c)Vai trò của tỷ giá trong nền kinh tế
Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán
cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của nhà nước. Nó ra đời
từ hoạt động thương mại quốc tế và quay trở lại tác động thúc đẩy hoạt động
ngoại thương phát triển.
Bởi vì tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng
hoá và tư bản (vốn), giá cả hàng hoá trong nước, do đó nó có tác động không
nhỏ đến nền kinh tế quốc dân của một nước. Khi tỷ giá giảm, tức giá trị đồng
5
nội tệ giảm nên giá cả hàng hoá xuất khẩu tính bằng tiền nước ngoài giảm ,
sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường thế giới sẽ tăng lên có tác
dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá .
Đồng thời với việc tỷ giá giảm làm cho giá hàng hoá nhập khẩu tăng
lên dẫn đến hạn chế nhập khẩu. Ngược lại khi tỷ giá tăng, nghĩa là giá trị
đồng nội tệ tăng thì có tác động giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu hàng hoá.
Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư bản (vốn)
từ quốc gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên thế giới
nhằm mục đích kiếm lời nhuận và tránh rủi ro. Do đó, nếu tỷ giá giảm trong
trường hợp người ta dự đoán tỷ giá không tiếp tục giảm nữa thì tư bản nhập
khẩu sẽ gia tăng và tư bản xuất khẩu sẽ giảm .
Ngoài các nhân tố khác ,vật giá trong một quốc gia còn chịu sự tác
động của tỷ giá hối đoái . Khi tỷ giá giảm, giá tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng nhập khẩu tăng lên kéo theo giá cả các mặt hàng trong nước có
liên quan cũng tăng theo. Đồng thời do tác động giảm nhập khẩu nên cầu về
các hàng hoá nhập khẩu cũng sẽ gia tăng,tất điều đó làm cho giá cả chung
trong nền kinh tế cũng gia tăng. Ngược lại, khi tỷ giá tăng sẽ có tác động
làm cho mức giá chung giảm.
II. Lãi xuất
1. Khái niệm
Theo Mac: lãi suất là phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản sản xuất
phải trả cho nhà tư bản tiền tệ trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo Keynes: lãi suất là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối quan hệ
giữa cung và cầu về tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh, cầu
tiền phản ánh các nhu cầu đầu cơ, pḥng ngừa và giao dịch về tiền.
Trái với Keynes, các nhà kinh tế học cổ điển trước đó đă coi lãi suất là
một hiện tượng thực tế, được xác định bởi áp lực của năng suất - cầu về vốn
cho mục đích đầu tư và tiết kiệm.
Như vậy, lãi suất là giá của vốn, là chi phí phải trả cho việc thuê vốn.
Lãi suất là tín hiệu của thị trường tham gia vào việc nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lư. Lãi suất c̣n là công cụ để
ngân hàng nhà nước thay mặt chính phủ điều hành chính sách tiền tệ mỗi
quốc gia thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều chỉnh và can
6
thiệp vào thị trường giúp hạn chế và khắc phục những yếu kém của nền
kinh tế.
2. Vai trò của lãi suất
Trên tầm vĩ mô, lãi suất là công cụ điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô
rất có hiệu quả của chính phủ thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất
trong từng thời kỳ nhất định, chính phủ có thể tác động đến quy mô và tỷ
trọng các loại vốn đầu tư, đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ thất nghiệp và tình
trạng lạm phát.
Là công cụ để nhà nước thực hiện các chủ trương, chính sách nhân
đạo như thực hiện chính sách cho vay với lãi suất thấp cho sinh viên, các hộ
nghèo vv…
Là công cụ để nhà nước kiểm soát được nguồn vốn từ trong nước ra
nước ngoài và ngược lại. Lãi suất giúp điều tiết các luồng tiền đi vào hay đi
ra của một quốc gia, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá …
Trên tầm vi mô, lãi suất là cơ sở để cho cá nhân cũng như doanh nghiệp
đưa ra các quyết định của ḿnh như chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm, đầu tư,
mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh hay cho vay hoặc gửi
tiền vào ngân hàng.
3. Phân loại
3.1Theo cách tính lãi:
Lãi suất đơn: áp dụng cho những món vay đơn có thời hạn tính lãi
trùng với chu kỳ tính lãi.
Lãi suất tích hợp: áp dụng cho những món vaycos thời hạn tính lãi
khác với chu kỳ tính lãi.
3.2Theo giá trị của khoản thu nhập:
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất ghi ở hợp đồng kinh tế (cam kết giữa
hai bên về lãi suất). Chưa đảm bảo lãi suất cho người vay.
Lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa sau khi loại bỏ đi yếu tố lạm phát.
Quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế được biểu thị bằng các
công thức sau:
(1 + r)(1 + i) = (1 + R)
7
Trong đó:
R : là lãi suất thực tế,
i : là tỷ lệ lạm phát và
R: là lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát dự kiến
3.3Theo hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Lãi suất tiền gửi thông thường là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả
cho người gửi tiền trên số tiền ở tài khoản tiền gửi tiết kiệm (đă bao gồm tỷ
lệ lạm phát).
Lãi suất tiền gửi = Lãi suất cơ bản + tỷ lệ lạm phát
Lãi suất cho vay cũng bao gồm nhiều loại khác nhau tuỳ theo tính chất
của món vay và thời hạn của món vay.
Lãi suất cho vay = Lãi suất tiền gửi + chi phí cho hoạt động của NH
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng
cho nhau vay tiền nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên thị trường tiền
tệ như lãi suất Libor, Sibor, Pibor, Vibor …
3.4Theo chính sách điều hành lãi suất của NHNN
Lãi suất tái cấp vốn: là hình thức ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng có
bảo đảm cho các ngân hàng nhằm cung ứng vốn ngắn hạn. Như vậy lãi suất
tái cấp vốn là lãi suất được sử dụng trong trường hợp NHNN tái cấp vốn cho
các ngân hàng. Ở Việt Nam, NHTW tái cấp vốn cho các NHTM qua các h́nh
thức: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu
và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay lại dưới h́nh thức cầm cố các
giấy tờ có giá ngắn hạn.
Lãi suất tái chiết khấu : là một hình thức của lãi suất tái cấp vốn được
áp dụng khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy
tờ có giá ngắn hạn cho các ngân hàng.
Lãi suất cơ bản : Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất
thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng
Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến
động cung cầu vốn .
8
Lãi suất thỏa thuận : là ngân hàng có thể thỏa thuận với khách hàng để
cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần cho các khoản vay.
III. Mối quan hệ giữa Tỷ giá hối đoái và Lãi xuất
Mối quan hệ giữa lãi suất trên thị trường tiền tệ với tỷ giá trên thị
trường hối đoái sẽ được hiểu rõ thông qua việc nghiên cứu hiệu ứng Fisher
quốc tế (International Fisher Effect) và lý thuyết ngang giá lãi suất. Hai lý
thuyết này khác nhau ở các hàm ý.
Lý thuyết ngang giá lãi suất chú ý luận giải vì sao tỷ giá kỳ hạn khác
với tỷ giá giao ngay và mức độ chênh lệch sẽ có. Lý thuyết này liên quan
đến một thời điểm nhất định (tỷ giá kỳ hạn), khẳng định tỷ giá hối đoái chịu
ảnh hưởng sự sai biệt trong lãi suất.
Theo lý thuyết ngang giá về lãi suất, đồng tiền của một quốc gia nào
đó có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ là bù kỳ hạn cho hợp đồng kỳ hạn đối
với đồng tiền của một quốc gia nọ có lãi suất cao hơn. Nói cách khác, trừ kỳ
hạn hoặc bù kỳ hạn trên giá kỳ hạn là xấp xỉ tương đương với chênh lệch lãi
suất giữa hai đồng tiền. Ngược lại, hiệu ứng Fisher quốc tế chú trọng đến
việc tỷ giá giao ngay của một đồng tiền sẽ thay đổi theo thời gian, khẳng
định rằng tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi theo chênh lệch lãi suất giữa hai nước.
Từ phân tích theo lý thuyết ngang giá lãi suất và hiệu ứng Fisher quốc
tế, có thể thấy rằng lãi suất là công cụ giúp các nhà quản trị tài chính dự
đoán và xác định tỷ giá trong tương lai để hoạch định chiến lược phòng
chống rủi ro và chiến lược kinh doanh hiệu quả. Lãi suất đóng vai trò quan
trọng trên thị trường hối đoái bởi vì các khoản tiền gởi lớn được buôn bán tại
đó đều được trả lãi, mỗi khoản có một lãi suất, tùy theo đồng tiền mà nó
được định danh. Lợi tức của các khoản tiền gởi được mua bán trên thị
trường hối đoái phụ thuộc vào lãi suất và các thay đổi dự kiến của tỷ giá hối
đoái.
Sự cân bằng thị trường hối đoái đòi hỏi sự ngang bằng về tiền lãi, điều
kiện mà theo đó lợi tức dự kiến của các khoản tiền gởi của hai loại tiền bất
kỳ là tương đương thì được đo bằng một loại tiền (nghĩa là đo bằng các đơn
vị có thể so sánh với nhau được). Chỉ khi tất cả các tỷ suất lợi tức dự kiến
đều bằng nhau, tức là khi đó điều kiện ngang bằng tiền lãi, thì sẽ không có
tình trạng dư cung về một số dạng tiền gởi nào đó và cũng không có tình
trạng dư cầu về một số loại tiền gởi khác. Thị trường hối đoái sẽ cân bằng
9
khi không một loại tiền gởi nào ở trong tình trạng dư cầu hoặc dư cung. Do
vậy, có thể nói rằng thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi có điều kiện ngang
bằng về tiền lãi.
Khi phân tích lãi suất tác động đến tỷ giá, chúng ta dựa trên nguyên
tắc cetacis paribas, nghĩa là khi nghiên cứu tác động của một nhân tố thì
chúng ta cố định các nhân tố khác. Đó là cách làm để đơn giản hóa việc phân
tích. Tuy nhiên, các yếu tố có tác động lẫn nhau, vì vậy ảnh hưởng đồng thời
của chúng đối với vấn đề nghiên cứu rất phức tạp. Phân tích hồi quy thường
được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng đã qua của một hay nhiều yếu tố đối
với đối tượng nghiên cứu. Điều này hàm ý là sự thay đổi về tỷ giá hối đoái
tương lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố thay vì chỉ phụ thuộc vào lãi suất. Do
đó, trong khi lý thuyết ngang bằng tiền lãi có vẻ hợp lý, thực tế không luôn
luôn xảy ra như vậy. Các ảnh hưởng khác có thể bù trừ các ảnh hưởng của
một nhân tố nào đó. Dù sao chăng nữa, lý thuyết ngang giá lãi suất có tầm
quan trọng đến độ cho phép người ta dùng nó để khái quát ảnh hưởng của
các nhân tố đến việc thay đổi dự kiến của tỷ giá.
Trong thực tế, tỷ giá thị trường thường lệch khỏi tỷ giá được hình
thành trên cơ sở ngang giá lãi suất, bởi lẽ trạng thái cân bằng lãi suất của tỷ
giá chỉ tồn tại trong một số điều kiện nhất định như chu chuyển vốn trên thị
trường tài chính phải hoàn toàn tự do, chi phí giao dịch bằng không (0), rủi
ro trong đầu tư vào các tài sản tài chính bằng nhau…Trong các nền kinh tế,
các điều kiện này rất khó tồn tại như nhau làm cho mối quan hệ ngang giá lãi
suất không thể được duy trì chính xác mọi lúc, mọi nơi. Cho dù ngang giá lãi
suất có thể không được duy trì trong thực tế, thì nó vẫn có thể đóng một vai
trò hữu ích trong phân tích kinh tế. Thứ nhất, người ta có thể sử dụng tỷ giá
xác định theo ngang giá lãi suất như là chuẩn để quyết định xem đồng tiền
của một nước là dưới giá hay quá giá so với đồng tiền khác. Thứ hai, người
ta có thể thường xuyên làm những so sánh quốc tế có ý nghĩa các số liệu
kinh tế, sử dụng tỷ giá xác định theo ngang giá lãi suất hơn là tỷ giá do thị
trường xác định.
Những điều kiện diễn giải trên cho thấy rằng, sự thay đổi trong tỷ giá
hối đoái dự kiến trong tương lai phụ thuộc vào các nguyên nhân kinh tế của
sự thay đổi về lãi suất. Chúng ta thấy các tỷ giá hối đoái luôn luôn điều
chỉnh để duy trì sự ngang bằng tiền lãi. Làm thế nào để điều chỉnh tỷ giá hối
đoái? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ so sánh các mối quan hệ có khả
năng khác nhau giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái dự kiến trong tương lai và
việc tỷ giá hối đoái sẽ được sử dụng thế nào cùng với lãi suất để tính ra các
tỷ suất lợi tức có thể so sánh được.
10
Tỷ giá hối đoái được xác định tại thị trường ngoại hối. Thị trường hối
đoái sẽ cân bằng khi các khoản tiền gởi của mọi loại tiền đều có một tỷ suất
lợi tức dự kiến như nhau, điều kiện mà theo đó những người nắm giữ các
khoản tiền gởi ngoại tệ tiềm năng sẽ coi các khoản tiền nầy như những tài
sản được mong muốn như nhau, sẵn sàng nắm giữ tất cả các nguồn cung ứng
tiền gởi hiện có của mọi đồng tiền. Nói cách khác, một tỷ giá hối đoái ổn
định được thị trường sẽ là một tỷ giá khiến cho những người tham gia thị
trường bằng lòng nắm giữ các nguồn cung ứng hiện có về các khoản tiền gởi
bằng tất cả các đồng tiền. Như vậy, tỷ giá cân bằng được xác định theo nhu
cầu đối với ngoại tệ.
Vì tỷ giá hối đoái là giá tương đối của hai tài sản, nên hợp lý nhất là
coi chúng như một loại giá tài sản. Nguyên lý cơ bản của việc định giá tài
sản là ở chỗ giá trị hiện tại của tài sản, phụ thuộc vào sức mua tương lai dự
kiến của chúng. Khi đánh giá tài sản, người tiết kiệm xem xét tỷ suất lợi tức
dự kiến mà tài sản đó mang lại, tức là tỷ suất mà theo đó giá trị của một
khoản đầu tư vào tài sản dự kiến sẽ tăng lên qua một thời gian.
1.lãi suất là Công cụ điều chỉnh tỷ giá
Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều
chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của nôi tệ.
Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó
hấp dẫn các luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước, nếu lãi suất trong
nước cao hơn so với lãi suất nước ngoài hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến
những dòng vốn chảy vào hay sẽ làm chuyển lượng hóa ngoại tệ trong nền
kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn. Điều này làm cho tăng
cung ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng nội
tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng
nội tệ sẽ tăng giá. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp
hơn so với lãi suất nươc ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu
hướng tăng giá trên thị trường hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.
Về cơ bản, những trình bày trên đây chỉ đúng với các nền kinh tế mở
(open economy), nơi có đồng tiền chuyển đổi và tự do lưu chuyển vốn. Về
mặt lý thuyết, nếu lãi suất nước ngoài cao hơn, thì dẫn đến xuất khẩu tiền tệ,
và trong trường hợp ngược lại, là nhập khẩu tiền tệ. Thực chất, những khác
biệt về lãi suất chỉ dẫn tới sự chuyển đổi vốn, và kết quả là dẫn tới sự thay
đổi về tỷ giá, nếu dự đoán về lợi nhuận, lãi suất thu được do đầu tư tiền tệ
không được đảm bảo hay do việc nhân tín dụng bằng ngoại tệ không cân
bằng, bởi những mất mát về tỷ giá. Một khi còn tồn tại những mối lo ngại
11
như vậy, thì ngay cả khi có sự khác biệt lớn về lãi suất cũng không thể dẫn
tới sự chuyển đổi vốn đến mức giảm lãi suất.
Dự đoán về một quá trình phát triển tỷ giá đảo ngược để dẫn tới chênh
lệch về lãi suất thường xuất hiện khi xem xét lãi suất danh nghĩa của một
đồng tiền chứ không phải là lãi suất thực, tức là khi chiết trừ tỷ lệ lạm phát
thì đồng tiền với lãi suất danh nghĩa thấp lại có lãi suất thực cao hơn và
ngược lại. Thí dụ, đồng tiền A có lãi suất 10%/năm và tỷ lệ tăng giá là
9%/năm; đồng tiền B có lãi suất là 8%/năm và tỷ lệ lạm phát là 5%/năm,
như vậy lãi suất danh nghĩa của đồng tiền A cao hơn của đồng tiền B là
2%/năm, nhưng lãi suất thực thì ngược lại, lãi suất của đồng tiền B lại cao
hơn so với đồng tiền A là 2%/năm. Theo cách phân tích này, chỉ có lãi suất
thực mới tạo ra được sự nhập vốn; ngược lại, khi đồng tiền có lãi suất thực
thấp thì sẽ dẫn tới hiện tượng nhận tín dụng, bởi vì người ta hy vọng rằng,
khi thanh toán tín dụng người ta chỉ cần phải chi phí ít đơn vị nội tệ để mua
lại số ngoại tệ đã vay, thậm chí còn ít hơn cả khi chưa trao đổi giá trị tín
dụng.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mức lãi suất cao là
công cụ để chống lạm phát và nó thường được sử dụng để đáp ứng yêu cầu
can thiệp vào nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách lãi suất còn được sử dụng
vào mục đích điều chỉnh giá trị đối ngoại của nội tệ. Phương pháp dùng lãi
suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể nó là phương pháp
thường được sử dụng với mong muốn có những thay đổi cấp thời về tỷ giá.
Cơ chế tác động của công cụ này đến tỷ giá hối đoái như sau: Trong thế cân
bằng ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khi lãi suất tái chiết khấu
thay đổi, sẽ kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ
đó, tác động đến xu hướng dịch chuyển của các dòng vốn quốc tế làm thay
đổi tài khoản vốn (trong cán cân thanh toán quốc tế) hoặc ít nhất cũng làm
những người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang
đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ
thể, nếu lãi suất tăng sẽ dẫn đến xu hướng là một đồng vốn vay ngắn hạn
trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và những người sở hữu vốn
ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ của mình
sang nội tệ để thu lãi cao hơn. Kết quả là tỷ giá giảm (đồng nội tệ tăng).
Trong trường hợp ngược lại, nếu muốn tỷ giá tăng thì sẽ giảm lãi suất tái
chiết khấu.
Những hạn chế
12
Tuy nhiên, cách làm này cũng có những hạn chế nhất định, bởi lẽ lãi
suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián
tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Các yếu tố để
hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến động do tác
động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong
phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt, có thể
vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung
cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân
thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định. Như vậy là nhân tố hình thành
lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động của lãi suất (lên cao
chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ giá hối đoái biến động theo ( hạ
xuống chẳng hạn). Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước
ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước
không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì với vốn nước
ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho số vốn
chứ không phải là vấn đề thu hút được lãi nhiều. Chính sách lãi suất chiết
khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có giới hạn đối với tỷ giá hối đoái,
bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất chỉ có quan hệ lôgic chứ không phải quan hệ
nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động
vốn giữa các nước. Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách
chiết khấu. Nếu tình hình tiền tệ của các nước đều đại thể như nhau, thì
phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao.
Do vậy, hiện nay chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó. Đồng
thời, can thiệp vào tỷ giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường
vốn ngắn hạn) đủ mạnh, tự do và linh hoạt: tài khoản vốn đã được mở cửa.
2.Quan hệ biện chứng
Lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các
công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạch
định của nền kinh tế. Sự khập khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể
gây ra những hậu quả bất lợi như: nội tệ bị mất giá gây nguy cơ lạm phát
“chảy máu” ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu tư nước
ngoài…Vì vậy, trong quản lý vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá phải được
xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng
thời kỳ nhất định.
Điều hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá là một kỹ thuật
vi diệu, vì rằng hai biến số này bị tác động bởi nhiều yếu tố như tình hình
13
xuất, nhập khẩu, lạm phát, đầu tư nước ngoài, chính sách, kinh tế, tài chính
của chính phủ, các yếu tố tâm lý… Trong quá trình vận hành hai biến số này
tác động ngược lại nhằm thúc đẩy hoặc kiềm chế sự phát triển của các yếu tố
trên các yếu tố tác động đến quá trình hình thành và lãi suất và tỷ giá là kết
quả hàng loạt quá trình tương tác khác nhau. Vai trò, phương thức, cường độ
của từng yếu tố lại phụ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh cụ thể của mỗi
nước và thay đổi theo từng giai đoạn phát triển. Như vậy, sự thay đổi của lãi
suất và tỷ giá tùy thuộc rất nhiều yếu tố, các yếu tố lại thường đan xen vào
nhau và tùy thuộc lẫn nhau ở một thời điểm cụ thể, tình hình cụ thể, sẽ có
yếu tố nổi bật là nguyên nhân làm thay đổi lãi suất và tỷ giá và cũng có yếu
tố trở thành hệ quả của sự thay đổi lãi suất và tỷ giá. Chính mối quan hệ biện
chứng này làm cho việc điều hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ
giá trở nên khó khăn, phức tạp. Vai trò của lãi suất và tỷ giá như là những
công cụ tích cực trong phát triển kinh tế, đồng thời là những công cụ kềm
hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay vụng về
trong việc sử dụng chúng.
3. Có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp
Lãi suất và tỷ giá chỉ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách
gián tiếp, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Các yếu tố
để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến động do tác
động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong
phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt, có thể
vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung
cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân
thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định.
Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó
biến động của lãi suất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ giá
hối đoái biến động theo ( hạ xuống chẳng hạn). Lãi suất lên cao có thể thu
hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng khi tình hình chính trị,
kinh tế và tiền tệ trong nước không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện
được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm
bảo an toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu hút được lãi nhiều.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Văn Tư và Nguyến Quốc Khanh (2001), Tài Chính Quốc Tế, NXB Lao
động – Xã hội, trang 193, 212
Sử Đình Thành và cộng sự (2008), Nhập môn Tài cính tiền tệ, NXB Lao
động – Xã hội, trang 325,326
/>ty-gia.html
/>ty-gia.html