Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tìm hiểu bài văn Đời thừa - Nam Cao_1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.93 KB, 8 trang )

Tìm hiểu bài văn Đời thừa
- Nam Cao

Xuất xứ, chủ đề

1. Truyện ngắn “Đời thừa” đăng trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” số
490 ra ngày 4/12/1943.

2. Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai
dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân
đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã
hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của
con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ
giữa người và người.

Tóm tắt truyện

Hộ là một nhà văn trẻ có tài, viết thận trọng, ôm ấp một lý tưởng một
hoài bão xây dựng nên một sự nghiệp văn chương. Nhưng từ khi mở
rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ - một cô gái lỡ làng, bị tình nhân phụ - Hộ
nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ, Hộ mới hiểu thế nào là giá trị của
đồng tiền, những bận rộn tẹp nhẹp ngốn phần lớn thì giờ của hắn. Hộ
phải cho in nhiều cuốn văn viết vội. Hắn đỏ mặt xấu hổ khi đọc văn
mình, tự mắng mình là một thằng khốn nạn. Có lúc anh tự nhủ mình phí
đi vài năm để kiếm tiền. Một bầy con thơ nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức,
Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn trở nên cau có, gắt gỏng. Có
lúc, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt
nghẹn. Hắn lắc đầu tự bảo: “… Ta đã hỏng đứt rồi!”. Hắn rũ buồn.

Vốn thương vợ con thế nhưng rồi Hộ tìm đến rượu, thay đổi dần tâm
tính. Hắn say rượu, ngủ say như chết. Có lần hắn đòi đuổi mấy mẹ con


Từ ra khỏi nhà, đòi vật một nhát cho chết cả! Nhưng sáng hôm sau tỉnh
rượu hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén, xin lỗi Từ, hôn hít các con như
một người cha tốt. Hắn hứa chừa rượu… nhưng rồi lại uống, lại say, lại
làm những trò vừa buồn cười vừa đáng sợ như lần trước.

Hộ rất yêu vợ con. Khi Từ ốm đau, Hộ lo xanh mặt, thức suốt đêm săn
sóc thuốc thang cho vợ. Đi xa vài ngày, lúc về nhà hắn hôn hít các con,
cảm động đến ứa nước mắt. Hắn độc sách say mê, đọc và nghiền ngẫm,
hắn thổ lộ “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng đọc
và hiểu được một câu văn hay. Có lần, trước khi đi lấy tiền nhuận bút,
hắn hứa mua bánh và thịt quay về cho con. Nhưng hắn gặp Trung và
Mão, bạn văn, bao nhiêu tiền đem tiêu sạch. Say mèm mới trở về nhà.
Lần này hắn đánh Từ, đuổi vợ con ra khỏi nhà lúc đang đêm. Gần sáng,
tỉnh rượu, hắn nhớn nhác đi tìm Từ. Thấy Từ xanh xao ôm con thơ đang
thiếp đi trên võng. Hắn thương cảm, ngắm nghía mặt Từ lâu lắm, rồi khẽ
thở dài, lắc đầu ái ngại, dịu dàng nắm lấy tay Từ, rồi khóc nức nở. Từ
tỉnh giấc, choàng tay ôm lấy cổ chồng. Nước mắt Từ giàn giụa. Nức nở
Từ nói: “… Chính vì em mà anh khổ!”… Giật mình, con thơ khóc. Từ
vừa dỗ con, vừa cất tiếng ru qua làn nước mắt:
“Ai làm cho khói lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kì,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”
Thơ Tản Đà

Phân tích

1. Nhân vật Từ

- Ngoại hình: chắc là thời con gái, Từ cũng có một ít nhan sắc? Nam

Cao rất ít tả ngoại hình. Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả
tả Từ một người đàn bà “bạc mệnh”: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt,
mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại,… Cái bàn tay lủng
củng rặt những xương. Cổ tay mỏng mảnh. Làm da mỏng, xanh trong,
xanh lọc… Đó là hình ảnh một thiếu phụ, nhiều lo lắng, thiếu thốn về
mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.

- Lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già
bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao
nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.

- Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ
thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh. Từ hiểu
rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho
Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi, nhưng Từ
vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Hộ còn
là ân nhân của chị. “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình
của một con chó dối với người nuôi”.

- Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “… Không! Anh chỉ là
một người khổ sở… Chính vì em mà anh khổ…”. Nàng ru con qua dòng
nước mắt… cho thấy Từ là một người bạc mệnh, nhưng bản tính rất dịu
dàng, giàu đức hy sinh.

- Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu
của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ “bạc
mệnh” và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương,
là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình
yêu mà ít có hạnh phúc!


2. Nhân vật Hộ

a. Hộ là một con người giàu tình thương

- Hộ đã hành động một cách cao đẹp “nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho
Từ”. Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận
Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ… Như một nghĩa cử cao đẹp,
Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình
thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm “Kẻ mạnh chính là
kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

- Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện
“phí đi một vài năm để kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những
lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm”. Chỉ xa các con vài ngày,
lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, “hôn hít chúng vồ
vập”. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra
khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn
cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, hộ thương đàn con thơ cả tháng
“đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra
hồn”.

- Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc
đời, thấm tình đời “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,
vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự
công bình. Nó làm cho người gần người hơn”. Đó là một quan niệm rất
tiến bộ, quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhà văn phải vì con
người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã hội,
là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ
đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun
đắp cho hạnh phúc của con người.


b. Hộ là một nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai
dẳng.

- Hộ có tài, lúc đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, “hắn
băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng
ra một thời”. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ “cho in nhiều
cuốn văn viết vội”, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình “là
một thằng khốn nạn”, “là một kẻ bất lương!”. Trước kia tin tưởng bao
nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu! Hắn “rũ buồn”, lắc đầu tự
bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”

- Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất,
nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được
thì “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng”. “Hộ điên
người lên vì phải xoay tiền” nhưng hắn bảo “khổ thì khổ thật, nhưng thử
có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi
đã đổi”.

- Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc “chan chứa nước mắt,
mặt hầm hầm”. Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: “đôi lông mày
rậm… châu đầu lại với nhau… cái mặt hốc hác…”.

- Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi
kịch, say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng
có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt, đòi “vật một nhát cho chết
cả”. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian
ngắn, lại say, lại đánh vợ, “làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ
như lần trước”. Trở thành bê tha “hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở
dọc đường”, về đến nhà thì đổ xuống giường “như một khúc gỗ… ngủ

sau như chết!”. Có điều lạ, Hộ rất “tỉnh” khi anh bàn luận văn chương,
rất biết điều và ân hận thực sự lúc tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà
thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc “Nước mắt hắn bật ra như nước
một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn
khóc! Hắn khóc nức nở…”. Rồi hắn tự lên án mình “chỉ là… một
thằng… khốn nạn!”

×