Đề thi và đáp án Đại học môn Văn
khối D năm 2011
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 2011
Môn: NGỮ VĂN; Khối: D
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm)
CâuI.(2,0 điểm)
Trong đoạn trích bài thơ Việt Bắc (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009), Tố Hữu
đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật giàu tính dân tộc nào? Những phương tiện
đó phù hợp với việc diễn tả tình cảm gì của người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt
Bắc?
Câu II. (3,0 điểm)
Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy là người có ích.
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến
trên.
PHẦN RIÊNG (5,0 điểm)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo Chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn.
Anh/chị hãy phân tích khung cảnh phố huyện và tâm trạng của nhân vật Liên trong tác
phẩm Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên, Ngữ văn 12 Nâng cao,
Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 106)
Phân tích đoạn thơ trên để thấy được chất suy tưởng triết lí và nghệ thuật sáng tạo
hình ảnh của Chế Lan Viên.
BÀI GIẢI GỢI Ý
Câu I: Thí sinh trả lời ngắn gọn, đảm bảo các ý sau:
1. Tố Hữu đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật giàu tính dân tộc trong bài thơ
Việt Bắc:
_ Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển của dân tộc được Tố Hữu sử dụng điêu luyện
kết hợp với lối hát đối đáp giao duyên vốn quen thuộc trong ca dao dân ca.
_ Tác giả đã chọn lựa và sử dụng thật linh hoạt và đầy sáng tạo cặp đại từ nhân xưng
vốn quen thuộc trong ca dao dân ca “mình – ta”
_ Tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ truyền thống (so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,
hoán dụ, cường điệu, điệp từ, điệp ngữ …) cũng như sử dụng những từ láy và cách nói
quen thuộc của thơ ca dân gian đã tạo nên nhạc tính dân tộc của bài thơ như giọng
điệu tâm tình.
2. Những phương tiện nghệ thuật trên rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm lớn, ân tình
cách mạng (tình quân dân “cá nước” trong chín năm kháng chiến gian khổ mà hào
hùng ở núi rừng Việt Bắc, tình cảm đối với Đảng và Bác Hồ kính yêu) giữa người cán
bộ kháng chiến về xuôi và nhân dân (người ở lại) Việt Bắc, làm cho tình cảm giữa họ
kín đáo mà không xa vời, gắn bó thắm thiết, mặn nồng sâu sắc mà không gượng gạo,
không sỗ sàng.
Câu II : Thí sinh cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản của câu hỏi : Viết một bài văn
ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về ý kiến : Đừng cố gắng trở thành người nổi
tiếng mà trước hết hãy là người có ích.
Thí sinh có thể trình bày bài viết theo những nội dung cụ thể khác nhau. Sau đây là một
số gợi ý :
- Giới thiệu ý kiến của đề bài: Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà trước hết hãy
là người có ích.
- Giải thích :
+ Người nổi tiếng : là người có tiếng tăm được nhiều người biết đến.
+ Người có ích : là người có cuộc sống có ích, có ý nghĩa, cũng cần thiết và có giá trị
đối với người khác, gia đình, xã hội.
+ Ý kiến là một lời khuyên về một trong những mục đích sống của con người : hãy sống
với một mục đích sống chân chính đừng cố gắng theo đuổi tiếng tăm, danh vọng mà
hãy quan tâm đến giá trị của cuộc sống, nhất là với mọi người.
- Phân tích chứng minh :
+ Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng :
× Tiếng tăm, danh vọng : thường không phải là mục đích cao đẹp nhất của cuộc sống.
× Danh vọng có thể làm tha hóa con người, làm băng hoại đạo đức và đẩy con người ta
vào tội lỗi.
× Để cố trở thành người nổi tiếng có những người đã đi vào những con đường bất
chính, sử dụng những phương cách xấu xa. Do đó, nổi tiếng như thế chỉ là vô nghĩa.
+ Trước hết, hãy là người có ích :
× Người sống có ích mang lại nhiều ích lợi cho người khác trong cuộc sống.
× Sống có ích sẽ làm thăng hoa giá trị con người, thăng hoa giá trị cuộc sống.
× Người có ích dù không được nổi tiếng nhưng cuộc sống của họ là cần thiết, có giá trị,
có ý nghĩa đối với người khác, gia đình, xã hội. Ngay cả trong quan niệm của người
xưa về “chí nam nhi”, chữ “danh” (Phải có danh gì với núi sông) luôn gắn với thực chất
của hành động (Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ).
- Bình luận :
+ Nổi tiếng cũng có mặt tốt, có tác dụng tốt. Tiếng nói của người nổi tiếng thường có
tác động nhiều hơn, lớn hơn đối với người khác, xã hội.
+ Nhưng đừng cố gắng chạy theo việc trở thành người nổi tiếng bằng mọi cách vì điều
đó mang lại nhiều tác hại. Hãy để cho tiếng tăm được đến một cách tự nhiên bằng
hành động có thực chất: hữu xạ tự nhiên hương.
+ Làm sao để là người có ích :
× Hãy sống có lý tưởng;
× Hãy sống có đạo đức, có trách nhiệm;
× Hãy sống vì gia đình, vì xã hội, vì cộng đồng;
+ Ý kiến này là một biểu hiện cụ thể của vấn đề danh và thực trong cuộc sống con
người. Giải quyết tốt mối quan hệ của vấn đề nổi tiếng và có ích, của danh và thực,
người ta sẽ dễ có cuộc sống bình an, hạnh phúc, chân chính.
- Đây là một ý kiến có giá trị đúng đắn. Đồng thời nó cũng là một lời khuyên rất có tính
thời sự, nhất là trước hiện tượng một bộ phận giới trẻ ngày nay đang có xu hướng tìm
sự nổi tiếng bằng mọi giá.
Câu III.a.
1.Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
- Thạch Lam là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Ông là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng có một gương mặt riêng
so với các nhà văn của Tự lực văn đoàn. Văn của Tự lực văn đoàn thường đượm nỗi
buồn lãng mạn còn văn của Thạch Lam lại chất chứa những nỗi đau hiện thực. Nó như
một thứ “hương hoàng lan” được chưng cất từ những nỗi đời.
- Truyện ngắn Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn (1938), rất tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật Thạch Lam. Đó là kiểu truyện ngắn trữ tình đượm buồn. Nét phong
cách này thể hiện sâu sắc ở khung cảnh phố huyện và tâm trạng của nhân vật Liên
trong tác phẩm.
2.Phân tích làm rõ ý kiến
a.Giải thích ý kiến: Truyện ngắn của Thạch Lam là kiểu truyện ngắn trữ tình đượm
buồn. Vì truyện của ông là kiểu truyện tâm tình, dường như không có cốt truyện; giàu
cảm xúc, nhẹ nhàng mà thấm thía như một bài thơ. Truyện Hai đứa trẻ bộc lộ niềm cảm
thương chân thành của nhà văn với cuộc sống chìm khuất, mòn mỏi, quẩn quanh của
những con người nhỏ nhoi nơi phố huyện tăm tối, cùng sự trân trọng những ước mong
khiêm nhường mà thiết tha của họ về một cuộc sống trong sáng, tốt đẹp hơn.
b.Phân tích làm rõ ý kiến
Bức tranh phố huyện được miêu tả theo trình tự thời gian: Cảnh phố huyện lúc chiều
xuống. Cảnh phố huyện lúc đêm về. Cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu khuya đi qua.
Liên là một cô gái nhỏ. Vì cha mất việc cả nhà phải chuyển từ Hà Nội về sinh sống ở
một phố huyện nghèo. Tuy còn nhỏ nhưng Liên đã tỏ ra đảm đang, thay mẹ trông coi
một quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống và Liên cũng rất chu đáo khi thay mẹ chăm sóc em
là bé An. Đặc biệt Liên là một cô gái nhỏ dịu hiền, nhân hậu, đa cảm. Diễn biến tâm
trạng của nhân vật Liên được khắc họa qua ba cảnh phố huyện, như ba nấc thang tâm
lí: chiều muộn, đêm về và chuyến tàu khuya qua phố huyện.
- Trước hết là tâm trạng buồn man mác của Liên, khi chiều về, phố huyện hiện lên
trong sự nghèo khổ, xơ xác:
+ Với cảm xúc và bút pháp lãng mạn, thì cảnh thiên nhiên phố huyện mang một vẻ đẹp
trữ tình thơ mộng.
+ Với cảm xúc và bút pháp hiện thực thì cuộc sống xã hội nơi phố huyện lại là bức
tranh nghèo khổ, xơ xác, tăm tối. Cái áo khoác ngoài thơ mộng của thiên nhiên cũng
không che lấp nổi cảnh ngày tàn, cảnh chợ tàn và cảnh những kiếp người tàn.
+ Liên tuy không lam lũ vất vả như những mảnh đời kia nhưng là những số phận đáng
thương nhất. Vì quá khứ tươi đẹp của hai chị em Liên đã thuộc về dĩ vãng. Hiện tại thì
buồn tẻ, tăm tối, bế tắc. Chúng có cái để so sánh, để cảm nhận cuộc sống tăm tối tẻ
nhạt của phố huyện.Đúng là cuộc sống phố huyện cứ đang tàn dần, lụi dần trong đói
nghèo lam lũ, quẩn quanh. Những tâm hồn mới lớn như chị em Liên, chứng kiến những
cảnh đó không buồn sao được. Nhưng vì còn là những đứa trẻ nên nỗi buồn cũng chỉ
“man mác”, đọng trong đôi mắt Liên “bóng tối ngập đầy dần”. Và cái buồn của chiều
quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của Liên.
- Liên càng buồn thấm thía hơn khi đêm về, phố huyện chìm trong bóng tối và
cuộc sống cứ lặp lại đơn điệu, buồn tẻ, bế tắc.
+ Về đêm phố huyện là sự tương tranh giữa bóng tối và ánh sáng. Màn đêm buông
xuống, bóng tối cứ lan dần từng con đường nhỏ, từng ngõ xóm, để rồi nhấn chìm phố
huyện trong bóng tối dày đặc. Ánh sáng phố huyện cũng nhiều: có ánh sáng của thiên
nhiên (ánh sao, ánh đom đóm), có ánh sáng của cuộc sống lao động nhưng chỉ là
những khe, chấm, hột…tất cả đều quá nhỏ nhoi, yếu ớt trước vũ trụ thăm thẳm bao la
ngập trong bóng tối. Nó không đủ thắp sáng phố huyện mà dường như chỉ càng tôn lên
màn tối dày đặc bao phủ phố huyện nghèo.
+ Khi đêm về cuộc sống phố huyện cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ, bế tắc. Ngày
hôm nay là sự lặp lại y nguyên những gì đã diễn ra hôm qua và sẽ lặp lại ở ngày mai.
Mẹ con chị Tí lại dọn hàng nước, gia đình bác xẩm lại xuất hiện với tiếng đàn ế khách.
Bác phở Siêu lại gánh phở đi bán…Phố huyện như một sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn
một màn buồn tẻ, không có sự thay đổi cả người lẫn cảnh. Đó là cuộc sống cứ “mốc
lên, mòn đi, rỉ ra, mục ra” không lối thoát (Sống mòn- Nam Cao). Nó gợi liên tưởng tới
hình ảnh “chiếc ao đời phẳng lặng” trong truyện ngắn Tỏa nhị kiều của Xuân Diệu. Nhà
văn không trực tiếp tả tâm trạng này của Liên. Nhưng cảnh vật và cuộc sống phố huyện
tăm tối, tẻ nhạt trong đêm lại được cảm nhận qua tâm trạng của Liên. Sống trong hoàn
cảnh như vậy, chị em Liên sao không khắc khoải chờ đợi một cái gì đó dù mơ hồ, nỗi
buồn dường như thấm thía hơn. Nhưng không hy vọng thì làm sao sống nổi. Và chuyến
tàu đêm đã thắp lên niềm hy vọng đó.
- Cảnh chuyến tàu khuya và tâm trạng buồn vui của Liên
+ Trong cả chuỗi thời gian dài buồn tẻ thì chuyến tàu đêm qua phố huyện là cả một
niềm vui lớn với hai chị em Liên. Hai đứa trẻ đêm nào cũng náo nức thức chờ tàu,
không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu vật chất. Chúng không chờ tàu để bán hàng, dù
mẹ vẫn dặn cố thức đợi chuyến tàu để bán hàng. Hai chị em chờ tàu là xuất phát từ
nhu cầu cuộc sống tinh thần. Khi tàu đến Liên và An đứng cả dậy, hướng về phía con
tàu và khi nó đi rồi Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng”.
+ Con tàu đến rồi lại đi nhanh để lại trong hai đứa trẻ nỗi buồn nhớ tiếc. Tàu đi rồi phố
huyện lại trở về với đêm tối và sự tĩnh lặng. Bóng đêm và sự tĩnh lặng càng nặng nề
hơn. Niềm vui của hai đứa trẻ vừa lóe lên lại bị dập tắt như đám than bỗng bùng lên
cháy rực rồi lụi tàn hẳn trong đêm. Nỗi chờ đợi bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều đổ
xuống, rồi đêm về và phố huyện vào khuya. Hai đứa trẻ khắc khoải chờ đợi từng bước
đi của thời gian, từng bước xích lại gần của chuyến tàu: tàu sắp đến, tàu vụt qua, tàu đi
rồi chỉ còn chấm đèn ghi nhỏ xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đêm tối lại bao bọc phố
huyện.
3.Đánh giá
- Miêu tả khung cảnh phố huyện buồn, nghèo nàn, tẻ nhạt, bế tắc và tâm trạng của hai
đứa trẻ, đặc biệt là Liên một cách trực tiếp và gián tiếp, qua thực tại và hồi ức đan xen;
miêu tả bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất thơ; nhà văn bộc lộ niềm xót
thương những kiếp người đói nghèo cơ cực, sống quẩn quanh bế tắc trong xã hội cũ.
- Từ đó tác giả như muốn lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn, nhen lên trong họ
ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khát khao thoát
khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ. Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã thể hiện sâu sắc
cái tài và cái tâm của nhà văn Thạch Lam. Cái tài của Thạch Lam là sở trường về
truyện ngắn và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Ông đã đem đến cho văn học
dân tộc kiểu truyện ngắn trữ tình đượm buồn, truyện ngắn tâm tình. Truyện dường như
không có cốt truyện, nhẹ nhàng mà thấm thía, giàu cảm xúc mà cũng giàu chất triết lí.
Cái tâm của Thạch Lam là tình người sâu sắc. Thạch Lam không chỉ thấu hiểu, cảm
thương những đau khổ thiệt thòi của những số phận nhỏ bé bị lãng quên khi miêu tả
diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên, mà còn thấu hiểu đồng cảm với những khát
vọng chân chính của họ, dù nó mới chỉ là những khát khao rất đỗi bình dị, mơ hồ.
Câu III.b.
I. Yêu cầu về kỹ năng :
- Biết cách làm một bài nghị luận văn học để cảm nhận đoạn thơ về nội dung, nghệ
thuật.
- Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp, dùng từ.
II. Yêu cầu về kiến thức : Trên cơ sở hiểu biết, thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách,
nhưng cần đảm bảo các ý chính sau :
1) Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn thơ :
- Chế Lan Viên là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới với phong cách thơ suy
tưởng, giàu triết lí và nghệ thuật tạo hình sâu sắc.
- “Tiếng hát con tàu” ® trích từ trong tập “Ánh sáng và phù sa”(1960).
® trích dẫn đoạn thơ (nêu cảm nhận chung về đoạn thơ - trình tự của mạch thơ)
2) · Phân tích cụ thể :
* Đoạn 1 : “Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.”
- Nội dung chủ yếu : công lao của Tây Bắc trong mười năm nhưng sức lan tỏa là “nghìn
năm sau”. Phân tích hình ảnh: ngọn lửa, thời gian: mười năm - nghìn năm, cách xưng
danh “Con – Mẹ”.
- Nghệ thuật đặc sắc : giọng thơ như lời tâm sự, mang ý nghĩa triết lí sâu sắc (mười
năm – nghìn năm, ngôn từ: Mẹ - Đất nước, Tây Bắc).
* Đoạn 2 : Hành trình trở về Tây Bắc
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.”
- Nội dung chủ yếu : trở về với nhân dân, Việt Bắc là sự cần thiết nhất trong cuộc sống:
cội nguồn, môi trường để con người phát triển tài năng, thỏa mãn những nhu cầu vật
chất lẫn tinh thần.
- Nghệ thuật đặc sắc : biện pháp tu từ so sánh, ngôn từ tạo hình, biểu cảm.
· Cảm nhận chung : Đoạn thơ mang phong cách suy tưởng và ý nghĩa triết lí sâu sắc
“Uống nước nhớ nguồn” và nhất là ngôn từ tạo hình, tạo cảm.
3) Đánh giá về tác giả, đoạn thơ để rút ra bài học triết lí :
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”
(Chế Lan Viên)