Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Giáo trình thực vật có hoa part 10 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 15 trang )



137
Chương 10
Phương pháp xác định tên cây
Định loại là một phần trong toàn bộ các công tác nghiên cứu phân loại. Đây là quá trình xác
định tên của một mẫu cây. Để định loại cần thiết phải có một số bước:
Tìm hiểu phương pháp phân loại, những đặc trưng của taxôn và thuật ngữ.
Tìm hiểu những tư liệu như cẩm nang và phòng mẫu cây khô.
Kỹ năng khi xác định tên cây.
10.1 Các thuật ngữ hình thái học
Công tác xác định mẫu vật đòi hỏi kiến thức sâu rộng về hình thái học thực vật, tuy nhiên
do mức độ đa dạng của thực vật nên có rất nhiều những thuật ngữ khác nhau, mô tả về hình
thái của các cơ quan, bộ phận của các tiêu bản. Do đó một bản mô tả, hướng dẫn cụ thể về các
thuật ngữ này được thể hiện bằng hình vẽ sẽ giúp ích rất nhiều trong công tác giám định mẫu
vật. Nó tránh cho việc sử dụng nhầm khi xác định nhầm đặc điểm hình thái.
Với việc hình hóa các thuật ngữ thì người giám định mẫu có thể hình dung ra một cách dễ
dàng đặc điểm của mẫu vật khi đọc bản mô tả, khóa mặc dù chưa cần đến sự hỗ trợ của các
dụng cụ phân tích (kính lúp, hiển vi quang học…). Một số hình vẽ để minh họa các thuật ngữ
và những khái niệm về hình thái học sẽ được trình bày trong các hình vẽ 10.1 – 10.23.
10.2 Phân loại các mẫu cây
Khi có một tập hợp nhiều mẫu cây khác nhau được thu trong một vùng nào đó thì bước
đầu tiên phải phân loại chúng thành từng nhóm căn cứ trên những đặc điểm giống nhau lần
lượt từ các bậc taxôn lớn như họ đến chi và loài. Để làm nhanh cần có những chuyên gia có
nhiều kinh nghiệm. Các chuyên gia có thể nhận dạng và phân loại một cách nhanh chóng
thành từng họ, chi và loài khác nhau. Sau đó chỉ có những mẫu nào không thể phân loại được
chúng ta mới phân tích và xác định căn cứ trên những khóa xác định đã có sẵn.
Các mẫu đã được các chuyên gia cho tên, cần kiểm tra lại qua các bản mô tả trong các bộ
Thực vật chí (flora).
Khi đã phân loại thành các họ hoặc chi thậm chí cả hai loài riêng biệt chúng ta mới bắt
tay công tác phân loại sâu hơn. Đầu tiên chúng ta có thể dựa vào các mẫu đã có tên trong


phòng mẫu cây khô để đối chiếu. Nếu chúng giống các mẫu trong phòng mẫu cây khô thì tạm
ghi tên vào nhãn và xếp riêng ra để kiểm tra sau.


138
RÔ chïm

RÔ cäc

Th©n cñ
Th©n rÔ
RÔ giß
G. Bäng hµnh
Th©n hµnh
RÔ giß

Hình 10.1.
Các thuật ngữ chỉ thân và rễ

Chåi ngän
Lãng
Chåi n¸ch
§èt
V
Õt l¸
VÕt l¸ kÌm
L¸ kÌm
Cuèng l¸
PhiÕn l¸
B× kh

æ
ng
VÕt l¸ bÑ chåi bóp
Cuèng l¸
L¸ kÌm

Hình 10.2.
Thuật ngữ chỉ các dấu hiệu hình thái cành

Tua cuèn
Gai cµnh
Gai l¸
Gai l¸ kÌm Gai biÓu b×

Hình 10.3.
Các thuật ngữ chỉ sự biến đổi của các bộ phận của cây



139

Lá đơn
Lá kép lông
chim một lần
Lá kép lông
chim hai lần
Lá kép chân vịt
Phiến
Cuống
Cuống

Cuống
lá chét
Sóng
Lá chét
Lá cấp 1
Lá cấp 2
Sóng 1
Sóng 2
Phiến

Cuốn
g


Hỡnh 10.4.
Cỏc thut ng ch cỏc dng phin lỏ

T
ừ gố
c
Mọc cách
Mọc đối
Mọc vòng

Hỡnh 10.5.
Cỏc thut ng ch cỏc cỏch mc ca lỏ


Song song
Lông chim

Chân vịt

Hỡnh 10.6.
Cỏc thut ng ch cỏc dng gõn lỏ ph bin



140
Dạng kim
Dạng vảy
Dạng dải
Chữ nhật
Hình mác Bầu dục Mác ngợc
H. Hình trứng
Bầu dục
rộng
Trứng ngợc
Tròn
Hình thận

Hỡnh 10.7.
Cỏc thut ng ch hỡnh thỏi ca phin lỏ


A
. Nhọn


B. Rất nhọn



C. Tà


D. Tròn E. Tròn có mũi
F.
Tròn
đỉnhlõm
G. Cắt ngan
g



Hỡnh 10.8.
Cỏc thut ng ch hỡnh thỏi ca chút lỏ


Có cuống
Không
cuống
Gốc lá
bao kín
thâ
n
Gốc lá
ôm thân
Bẹ





141
Nhọn
Cực nhọn

Tròn Cắt ngang
Hình tim
G. Hình xiên
(gốc lệch)
Hình mác
Hình tên
Hình khiên

Hỡnh 10.9.
Cỏc thut ng ch cỏc dng gc lỏ


A. Nguyên B. Răng tà C. Răng
mịn
D. Răng
ca to
E. Răng
ca nhỏ
F. Răng
hai lần
G. Răng
đều to
G. Răng
đều nhỏ
Xẻ thùy

lông chim
Xẻ thùy
chân vịt
Dạng
mép lá
Mép thẳng
Mép lợn sóng
Mép uốn lên
Mép uốn xuống

Hỡnh 10.10.
Cỏc thut ng ch cỏc dng mộp lỏ


Nhẵn Lông mềm Lông quăn
Lông rạp Lông cứng Lông rậm mềm
Lông vảy Lông phún Lông nhung
Lông hình sao Lông tuyến có cuống Lông tuyến không cuống

Hỡnh 10.11.
Cỏc thut ng ch cỏc dng lụng b mt



142
A
b c d e f
G H I J K
L M N O P


Hỡnh 10.12.
Cỏc thut ng ch cỏc dng Cm hoa:
A. Chựm; B. Hoa n c; C. Chựm kộp; D. Bụng; E. Tỏn bng;
F. Tỏn bỏn cu; G. Tỏn kộp; H. Ngự; I. Ngự kộp; J. Xim hai ng;
K. Xim hai ng; L. Thỏp; M. Xim dớch dc; N. Xim cun;
O. u hỡnh a; P. u hỡnh bỏn cu


Đ
ầu
V
òinhụy
Bao

Chỉ
Bầu
Cánh
Lá đài
Tuyến
Đ
ế
Cuống
Non

Ô bầu
A


Thành phần
cánh tràng

Chân

Phiến
Thành phần bao
hoa hình phễu

ng
Phễu
V
ành (5 thùy)
Thành phần
bao hoa môi

ng
Phễu
V
ành (hai môi
bằng nhau)
Môi trên (2 thùy)

Môi dới (3

thùy)

B


Hỡnh 10.13.
Thut ng v s cu trỳc hoa (A) v bao hoa (B)




143

ng Phễu Chuông Bình Kèn Con quay
Hoa đối xứng tỏa tròn (hoa đều) Hoa đối xứng hai bên

Hỡnh 10.14.
Cỏc dng bao hoa v cỏc cỏch i xng

Hoa trần (không
có cánh tràng)
Hoa tràn
g
rời Hoa tràn
g
h
ợp


Hỡnh 10.15.
Cỏc thut ng ch cỏc dng hoa


Bao phấn
Trung đới
Chỉ nhị
Nhị bình thờng
Chỉ nhị hợp thành mảnh hay khối Nhị dính trên ống tràng
Nhị so le với với các thùy bao hoa

hay cánh tràng
Nhị đối xứng với các thùy bao hoa
hay cánh tràng

Hỡnh 10.16.
Cỏc thut ng ch cu trỳc b nh




144
BÇu trªn
Hoa d−íi bÇu Hoa quanh bÇu
BÇu d−íi
Hoa ®Ønh bÇu Hoa trªn bÇu

Hình 10.17.
Các thuật ngữ chỉ vị trí của bầu và cách đính của các bộ phận khác của hoa


Hình 10.18.
Các cách đính noãn
A-B. Noãn đính mép; C-E. Noãn đính góc giữa; F-H. Noãn đính góc bên;
I-J. Noãn đính trung tâm; K. Noãn ở đáy; L. Noãn treo ở đỉnh



Hình 10.19.
Xu hướng đóng kín của lá noãn
từ noãn trần (A-B) đến noãn kín (C-D), từ bộ nhụy rời (E) bộ nhụy đến hợp (F-I)




145


Hình 10.20. Các dạng quả nang
A-D. Quả bế; F-G. Quả lúa; H-J. Quả có cánh; K-L. Quả dạng cau dừa. M-P. Quả nứt;
O. Quả mở năm mảnh có mỏ; Q. mở năm mảnh không có mỏ


Hình 10.21.
Các dạng quả nang tự mở
A,E. Quả xẻ ở đỉnh; B. Quả xẻ ngăn; C. Quả mở lỗ; D. Quả chẻ ngăn và cắt vách;
F. Quả mở đai; G,H. Quả cải; I, J. Quả đại; K,L. Quả đậu; M. Quả đậu có ngấn



146
Qu¶ cµ chua
Qu¶ lª
Qu¶ bÝ
Qu¶ h
¹
ch
Qu¶ cam chanh
Qu¶ dõa

Hình 10.22.
Các dạng quả nạc

A. Quả nạc dạng cà chua; B. Quả nạc dạng lê; C. Quả nạc dạng bầu bí;
D. Quả nạc dạng cam chanh; E. Quả hạch dạng dừa; F. Quả hạch dạng mận


Hình 10.23.
Các dạng quả đặc biệt
A - E. Quả tụ do bộ nhụy có lá noãn rời tạo nên;
F - G. Quả kép (là quả của các quả hợp lại = quả của quả)
(N.N.Thìn, Đ.T.Sy 2004 gọi là quả kép và quả phức nay xin sửa lại để phù hợp với quan niệm mới)

10.3 Phân tích trước khi xác định
Đối với người mới bắt đầu, chúng ta nên lấy các mẫu tươi phân tích để làm quen phương
pháp và hình dạng các dấu hiệu. Đối với những chuyên gia phân tích thường dựa trên các
mẫu khô. Khi phân tích các mẫu khô, các hoa là bộ phận quan trọng nhất phải phân tích, vì
vậy các hoa khi tách từ mẫu ra phải đun sôi với nước lã để các bộ phận trở về trạng thái ban
đầu trước khi phân tích.


147
Khi phân tích cần có lúp với độ phóng đại 10 lần, 1 đôi kim (một kim mũi nhọn và một
kim mũi mác), một mảnh giấy kẻ li (mm), một bản kính, một tờ giấy trắng có kẻ ô vuông
bằng chì, một bút chì mềm nhọn (đối với nghiên cứu phân loại của các nhà phân loại). Các
bước được tiến hành như sau:
Đặt bản kính lên tờ giấy kẻ li hoặc có thể cắt một mảnh giấy kẻ li bằng bản kính rồi dán
chặt vào bản kính và tất cả để lên bàn lúp, giấy trắng kẻ ô vuông để ở bàn về bên tay phải.
Quan sát mẫu vật xem thuộc loại cây gỗ hay cây cỏ, nếu là cỏ thì một năm hay nhiều
năm. Nếu hai năm trở lên thì trên thân bao giờ cũng có hai dạng thân khác nhau và ngăn cách
bởi vết tích của cành.
Quan sát dạng lá, đo kích thước, sự phân gân và trơn hay có lông. Quan sát cụm hoa xem
thuộc dạng gì.

Quan sát xem hoa đều hay hoa đối xứng hai bên.
Để hoa tươi hay khô đã đun sôi lên bản kính nếu là hoa bé và dùng hai kim, một cái bên
tay trái giữ, một cái bên tay phải tách từ từ từng bộ phận từ ngoài vào trong xem có mấy lá
đài, mấy cánh tràng, số nhị hay số lá noãn hay với cách sắp xếp, rời hay dính, kích thước dài
rộng căn cứ vào các ô li. Mỗi bộ phận vẽ sơ bộ lên tờ giấy trắng, cứ một ô li tương ứng với
một ô trên giấy trắng. Căn cứ vào đó để chúng ta vẽ toàn bộ hình dạng mỗi bộ phận và căn
cứ vào các ô li hay ô trên giấy vẽ chúng ta biết được kích thước từng bộ phận.
Cắt ngang bầu để xem số ô và số noãn trong mỗi ô hoặc cắt dọc hoa để vẽ cấu trúc chung
của hoa.
Ghi số hiệu mẫu, nơi lấy, ngày lấy, người lấy.
10.4 Sử dụng khóa để phân loại
Sau khi đã phân tích chúng ta dùng các khóa đã có sẵn để sắp xếp mẫu nghiên cứu vào
taxôn nào. Khóa dùng phổ biến bao giờ cũng có từng cặp đặc điểm đối ngược nhau, nếu đúng
đặc điểm này thì không đúng đặc điểm kia. Quá trình phân chia từ nhóm to đến nhóm nhỏ. Ví
dụ: Mục 1: cặp đặc điểm cây gỗ, đối lại là cây thảo nếu đúng nó thuộc nhóm cây gỗ thì nhóm
cây thảo bị loại bỏ
; Mục 2: cặp đặc điểm tiếp theo: hoa đều, đặc điểm đối lại là đối xứng hai
bên. Nếu nó thuộc hoa đối xứng hai bên thì nhóm hoa đều bị loại bỏ. Mỗi lần lựa chọn đặc
điểm như vậy thì số các taxôn giảm xuống, quá trình lựa chọn như vậy dẫn đến tên taxôn
chúng ta cần chọn tức là đặc điểm mẫu nghiên cứu trùng với
đặc điểm của taxôn cuối cùng
trong khóa mà ta sẽ đến.
Người ta ví việc sử dụng khóa lưỡng phân khi xác định tên như một người đi trên đường
cao tốc đến một ngã ba người đó phải chọn một trong hai hướng đó, theo hướng mới lại phải
gặp ngã ba tiếp, lại tiếp tục chọn một trong hai đường rẽ và cuối cùng sẽ đến nơi cần đến.
Nhưng nếu người đó không đủ thông tin hoặc các chỉ dẫn tại ngã ba không rõ làm cho người
đi đường chọn sai và không đi được đến nơi muốn đến. Lúc đó nếu chịu khó người đi đường
lại quay lại ngã ba cũ và chọn tiếp lối kia để tìm nơi cần đến. Tất nhiên sẽ tốn nhiều công sức
và thời gian mới có thể đạt được ý muốn.
Cần chú ý khi tra khóa:

Mẫu vật phải thu nhiều để tránh các trường hợp ngẫu nhiên và phải có đủ các bộ phận để
đảm bảo độ chính xác.
Luôn luôn đọc cả hai nhóm dấu hiệu đối lập nhau một lúc trước khi lựa chọn.


148
Nếu cả hai nhóm dấu hiệu đều không phù hợp với mẫu thì:
Chúng ta phải kiểm tra quá trình phân tích xem lại đã chính xác chưa, có thể sai do quan
sát hoặc tự ngộ nhận.
Nếu quá trình phân tích không sai sót thì dùng các khóa của vùng lân cận để tra tiếp.
Nếu vẫn không dẫn đến tên thì có thể đó là loài mới cho khoa học.
Nếu cả hai nhóm dấu hiệu đều phù hợp thì kiểm tra cả hai hướng.
Nếu không đủ các dấu hiệu để tra tiếp thì phải giả thiết và tra cả hai hướng để đi đến tên
taxôn cần tra; có thể dẫn đến một tên và cũng có thể cả hai tên, khi đó chúng ta phải kiểm tra
qua hình vẽ hoặc bản mô tả chi tiết hoặc mẫu cây trong phòng mẫu cây khô.
Kết quả cuối cùng phải được kiểm tra lại qua các mẫu có sẵn trong phòng mẫu cây khô
hay các hình vẽ và các bản mô tả gốc.
10.5 Mô tả
Mô tả một taxôn là căn cứ trên mẫu vật có sẵn để tiến hành mô tả mà không phải sao
chép lại từ các bản mô tả có sẵn trước đây bởi vì mỗi vùng do điều kiện sinh thái cơ thể thực
vật có những thay đổi nhưng ít nhiều nó cũng sẽ phù hợp với bản mô tả gốc.
Mô tả: Khi mô tả một taxôn (hình 1-21) theo tuần tự:
Dạng cây,
Kiểu lá, đơn hay kép, mọc cách hay mọc đối, dạng lá, gốc, đỉnh, mép, kích thước, sự
phân gân, màu sắc, trơn hay có lông, cuống lá, lá kèm.
Cụm hoa: cụm hoa gì, kích thước, số hoa trên cụm hoa, màu sắc.
Cấu trúc của hoa: hoa đều hay đối xứng hai bên; lá đài: số lượng, hình dạng, màu sắc, các
dấu hiệu đặc biệt; cánh tràng cũng tương tự; bộ nhị: số lượng, hình dáng; bộ nhụy: lá noãn
hợp hay rời, bầu trên hay bầu dưới, vòi và đầu nhụy, số ô, số noãn trong m
ỗi ô, cách dính.

Quả: kiểu quả gì, hình dạng, kích thước màu sắc.
Hạt: số lượng, hình dạng, màu sắc, kích thước.
Sau khi mô tả đặc điểm hình thái xong, ghi các đặc điểm về sinh thái và phân bố, công
dụng và các thông tin khác.
Sinh thái: cây ưa khô hay ưa ẩm, ưa sáng hay ưa râm, thường mọc ở đâu, mùa ra hoa và
kết quả.
Phân bố: các vùng phân bố.
Trong nước: ghi theo tỉnh từ Bắc vào Nam, từ Tây sang Đông. Mỗi tỉnh ghi tên tỉnh
tr
ước, sau đó ghi tên huyện, xã hay một địa danh nổi tiếng nào đấy, tọa độ, mục đích để dễ
tìm lại mẫu trong tương lai.
Ngoài nước: ghi từ gần đến xa.
Công dụng: nhân dân địa phương đã dùng làm gì, cách dùng ra sao.
Mẫu nghiên cứu: Ghi lý lịch các mẫu đã phân tích lần lượt từ tỉnh, huyện, xã thậm chí
một điểm nổi tiếng nào đấy ví dụ như chùa Thầy, chùa Trầm chẳng h
ạn; ngày lấy; người lấy,
số hiệu mẫu, lưu trữ ở đâu ví dụ: Bảo tàng thực vật ĐHQG Hà Nội thì ghi (HNU), Phòng mẫu


149
cây khô, Viện Sinh thái và TNSV (HN), Bách thảo ở Trung tâm Nhiệt đới thành phố Hồ Chí
Minh (HM).
Ghi chú: nếu có gì đặc biệt ví dụ khác với bản mô tả gốc chẳng hạn hoặc các tác giả trước
đây thường nhầm lẫn ra sao, thì phải ghi lại.
10.6 Lập khóa xác định
Khoá xác định là một công cụ để xác định tên cây nhanh nhất. Khoá xác định phổ biến và
dễ sử dụng là khóa lưỡng phân tức là người ta chọn hai nhóm đặc điểm đối lập nhau để tách
sưu tập mẫu của chúng ta thuộc nhóm nào. Tiếp theo lại dùng một cặp các đặc điểm khác để
loại trừ, tiếp tục như vậy chúng ta xây dựng được sưu tập mẫu của chúng ta thuộc chi nào
hoặc loài nào.

Có hai loại khóa: khóa tự nhiên và khóa nhân tạo.
Khoá tự nhiên là căn cứ vào xu hướng phân ly của các dấu hiệu để chọn các nhóm đặc
điểm. Nhóm đặc điểm quan trọng nhất để ở vị trí đầu để tách thành các nhóm lớn và giá trị
phân ly trong tiến hoá giảm dần thì số chỉ vị trí số nhóm tăng lên và giá trị các dấu hiệu cũng
giảm xuống. Trong mỗi cặp các dấu hiệu thì các nhóm dấu hiệu nguyên thủy để trước còn các
dấu hiệu tiến bộ để sau ví dụ (1) cây thân gỗ, hoa đều để trước (1*) cây thân thảo, hoa đối
xứng hai bên để sau.
Khoá nhân tạo là căn cứ vào các dấu hiệu dễ phân biệt nhất, có thể nhìn bằng mắt thường
được để ghép nhóm; không quan tâm đến vị trí huyết thống. Đây là loại khóa dễ lập và dễ tra
nhất. Ví dụ màu sắc của hoa chẳng hạn.
Loại khóa thứ nhất thì về nguyên tắc trước khi lập khóa phải xác định các xu hướng phân
ly. Muốn thế, điều trước tiên phải xem quan hệ của taxôn đó với taxôn nào hay xuất phát từ
một tổ tiên nào. Từ đó phải hình dung ra cây tổ tiên mang đặc tính gì thì mới có thể khẳng
định xu hướng phân ly của chúng. Có như vậy chúng ta mới biết dấu hiệu nào là nguyên thủy
và dấu hiệu nào là tiến bộ. Ví dụ khi lập khóa họ Thầu dầu Việt Nam, trước hết phải đọc
nhiều tài liệu nhất là các tài liệu tiến hóa. Trong họ này rất đa dạng về dạng sống từ cây gỗ
đến cây thảo và đã xác định cây gỗ nguyên thủy hơn cây thảo vì đặc điểm giải phẫu gỗ, cấu
trúc hạt phấn, số thể nhiễm sắc ở cây gỗ nguyên thủy hơn ở cây thảo. Về hoa, trong họ Thầu
dầu chủ yếu là hoa đơn tính, một vòng bao hoa, mẫu 3, nhưng ở một số còn bao hoa, hoa mẫu
5, và ở những đại diện đó có 5 tuyến mật rời; trong hoa cái có vết tích nhị còn tồn tại và
ngược lại trong hoa đực còn tồn tại dấu vết của bầu, từ đó có thể suy ra các đại diện tổ tiên
của họ có hoa lưỡng tính, bao hoa kép, có tuyến mật và thích nghi với thụ phấn nhờ côn trùng.
Trên cơ sở khẳng định được những đặc điểm nguyên thủy và tiến bộ, chúng ta bắt đầu chọn
từng cặp dấu hiệu để lập khóa.
Riêng khóa lưỡng phân cũng có mấy dạng viết khác nhau:
Khóa răng cưa: Đây là loại khóa sử dụng rộng rãi trong các cẩm nang phân loại cây có
hoa. Khoá này cứ từng cặp các đặc điểm cách lề trang giấy một khoảng cách cố định. Số cặp
càng lớn thì khoảng cách thụt đều vào phía trong một khoảng càng sâu. Ví dụ: để lập khóa
xác định các loài A, B, C, D, E chẳng hạn, ta lập khóa như sau:
1. Cây gỗ A

Cây thảo
2. Lá mọc rải rác


150
3. Cụm hoa xim B
3. Cụm hoa bó C
2. Lá dạng hoa thị
4. Hoa đều D
4. Hoa đối xứng hai bên E
Khóa ngoặc đơn hay song song: từng cặp đặc điểm luôn luôn xếp cạnh nhau. Ở cuối
dòng có tên taxôn đó hay là con số Ả Rập để chỉ tra cặp sau ở mục số nào. Một số khóa số đó
được viết kèm theo số đầu dòng để trong dấu ngoặc.
1. Cây gỗ A
1. (2) Cây thảo
2. (3) Lá mọc rải rác
2. (4) Lá mọc hoa thị
3. Cụm hoa xim B
3. Cụm hoa bó C
4. Hoa đều D
4. Hoa đối xứng hai bên E
Hoặc
1. Cây gỗ A
1*. Cây thảo 2
2. Lá mọc rải rác 3
2*. Lá mọc hoa thị 4
3. Cụm hoa xim B
3*. Cụm hoa bó C
4. Hoa đều D
4*. Hoa đối xứng hai bên E

Một số chú ý:
Các từ của mỗi cặp các dấu hiệu đối nhau nên viết giống nhau ví dụ như các chữ đầu là
cây thì đặc điểm đối lại cũng là cây.
Hai cặp dấu hiệu phải hoàn toàn đối nhau hay phân biệt nhau rõ để tránh sự trùng lặp,
nhất là kích thước ví dụ 4 đến 10 cm đặc điểm ngược lại 7 đến 15 cm là không chấp nhận vì 2
khoảng cách này trùng nhau 7-10 cm, hoặc những từ mang tính trừu tượng bé và lớn, rộng và
hẹp.
Các đặc điểm lựa chọn phải ổn định và đo đếm được, không nên chọn những đặc điểm
không đo đếm được như mùi vị chẳng hạn. Ví dụ phân biệt Quýt và Cam chẳng hạn, mặc dù
mùi cam và quýt khác nhau nhưng không thể dựa vào mùi để phân biệt vì nó không thể đo
đếm được, khi đó người ta dựa vào vỏ bóc rời múi hay không và lá mầm xanh hay trắng để


151
phân biệt, thậm chí có người cho rằng quả cam to hơn quýt, nhưng dấu hiệu đó không chính
xác và ổn định (Nguyễn Nghĩa Thìn 1995).
Có thể thành lập nhiều khóa cho một taxôn để đáp ứng với các mẫu vật không có đủ
tiêu chuẩn, ví dụ khóa cho cơ quan dinh dưỡng, khóa cho hoa, khóa cho quả và hạt.

×