Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Chăn nuôi gia cầm part 6 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.2 KB, 28 trang )


141
Trong sự phát triển xương ta thấy chiều dài xương bàn chân
và khối lượng cơ thể có tương quan dương chặt chẽ r = 0,659, do đó
trong công tác giống chiều dài xương bàn chân được sử dụng rộng
rãi như chỉ tiêu về khối lượng cơ thể để chọn, tạo giống sinh trưởng
nhanh (gia cầm có xương bàn chân dài thường có khối lượng và tốc
độ sinh trưởng nhanh hơn xương ngắn).

4.3. Sức sinh sản
Do đặc điểm của gia cầm là đẻ trứng, ấp trứng, nuôi con và
gia cầm con có khả năng tự dưỡng nên sức sinh sản được đánh giá
thông qua các chỉ tiêu sau:
4.3.1.Tỉ lệ thụ tinh
Tỉ lệ thụ tinh (TLTT) là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
sức sinh sản của bố mẹ. Tỉ lệ thụ tinh được xác định theo công thức
(1) hoặc (2):

TLTT (%) =
Số trứng có phôi
Số trứng đẻ ra
x100 (1)


TLTT (%) =
Số trứng có phôi
Số trứng đem ấp
x100 (2)

Mỗi cách tính có ý nghĩa riêng của nó.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ thụ tinh


-Giống, dòng: hướng trứng có TLTT cao hơn hướng kiêm trứng và
TLTT thấp nhất là hướng thịt
-Tuổi: tỉ lệ thụ tinh cao ở những năm đầu.
-Thức ăn: Protit và vitamin ảnh hưởng đến TLTT lớn hơn cả
-Ngoại cảnh, mùa vụ: mùa xuân, mùa thu cho TLTT cao, mùa hè,
đông TLTT thấp.

142
-Tỉ lệ trống/mái thích hợp khi ghép đôi giao phối: Gà hướng trứng
1/10-12, Gà kiêm dụng 1/7-8, Gà hướng thịt 1/4-5; Vịt cỏ 1/7-10,
Vịt bầu 1/4-5. Tuổi gia cầm trống có ảnh hưởng đến TLTT.

4.3.2. Tỉ lệ ấp nở
Tỉ lệ ấp nở (TLAN) (%) được xác định theo công thức (1),
(2) hoặc tỷ lệ nở của trứng thụ tinh (3).

Tỉ lệ ấp nở (%) =
Số gà con nở ra loại I
Tổng số trứng đẻ ra
X 100 (1)

Tỉ lệ ấp nở (%) =
Số gà con nở ra loại I
Tổng số trứng đem ấp
X 100


Tỷ lệ nở của trứng
thụ tinh (%) =
Số lượng gà con nở loại I

Số lượng trứng có phôi
X 100

Khi so sánh cần chú ý xem kết quả được tính theo công thức nào.
Những nhân tố ảnh hưởng đến tỉ lệ ấp nở
-Giống, dòng gia cầm, chế độ nuôi dòng đàn bố mẹ, thời gian
bảo quản và điều kiện bảo quản trứng giống trước khi ấp, chế độ ấp
trứng.
-Chất lượng trứng ấp: trứng có khối lượng trung bình của
giống có tỉ lệ ấp nở cao hơn trứng lớn hoặc nhỏ trong cùng giống.
Trứng có chỉ số hình dạng 74-76 (d/D) nở tốt.
Đã xác định 21 gen gây chết ở gia cầm thì 16 gen tác động
đến khả năng ấp nở. HSDT về tỉ lệ ấp nở là 13-16%; có sự biến động
lớn qua các năm. Phần lớn các gen gây chết đều có kiểu di truyền lặn
và chỉ biểu hiện khi có giao phối cận huyết qua tỉ lệ nở giảm. Trứng
quả to hoặc quá nhỏ đều có tỉ lệ nở thấp . Kết quả cho thấy gà Lơgo

143
có khối lượng trứng 45-64g có TLAN 87%, dưới 45g TLAP 80%,
lớn hơn 64g có TLAN 71%
Tỉ lệ nở liên quan đến thời gian của chu kỳ đẻ, trứng đẻ giữa
chu kỳ có tỉ lệ nở cao hơn đầu và cuối chu kỳ. Thời gian và điều kiện
bảo quản trứng giống, chế độ dinh dưỡng gia cầm bố mẹ… đều ảnh
hưởng đến TLAN (thảo luận ở chương ấp trứng gia cầm).
4.3.2.Tỉ lệ nuôi sống
Tỉ lệ nuôi sống (TLNS) (%) là chỉ tiêu sản xuất quan trọng,
quyết định hiệu quả trong chăn nuôi gia cầm, được tính theo công
thức (1) hoặc (2).

Tỉ lệ nuôi sống (%) =

Số gia cầm còn sống cuối kỳ
Số gia cầm con ở ra
X 100 (1)


Tỉ lệ nuôi sống (%) =
Số gia cầm sống cuối kỳ
Số gia cầm được chọn vào nuôi đầu kỳ
X 100
TLNS chịu ảnh hưởng của giống, dòng gia cầm, kỹ thuật
nuôi, phương thức nhân giống… HSDT khả năng sống 13-16% và
thấp hơn nữa vì vậy tính trạng này chịu sự chi phối nhiều của điều
kiện ngoại cảnh.

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
1. Thành phần cấu tạo trứng gia cầm.
2. Sức sản xuất trứng, chỉ tiêu và phương pháp đánh giá, các
nhân tố ảnh hưởng đến sức sản xuất ở gia cầm.
3. Sức sản xuất thịt, chỉ tiêu và phương pháp đánh giá, các nhân
tố ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt ở gia cầm.
4. Sức sinh sản và sức sống của gia cầm, chỉ tiêu và phương
pháp đánh giá.


144
CHƢƠNG 5
ẤP TRỨNG GIA CẦM

Gia cầm là đối tượng nuôi có đặc điểm đẻ trứng, ấp trứng,
nuôi con, gia cầm con có khả năng sống bằng nguồn dinh dưỡng từ

noãn hoàng trong tuần đầu, vì vậy có thể nuôi tách mẹ ngay từ 1
ngày tuổi. Khác với gia súc, phôi gia cầm phát triển ngoài cơ thể mẹ
nên chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố di truyền cũng như ngoại cảnh.
Nắm vững các đặc điểm về sự phát triển và những yêu cầu cần thiết
cho sự phát triển của phôi gia cầm cho phép nâng cao hiệu quả kinh
tế trong chăn nuôi.
6.1. Sinh lý sinh sản ở gia cầm
6.1.1. Chức năng sinh lý của cơ quan sinh dục gà mái
6.1.1.1. Buồng trứng
Buồng trứng nằm bên trái xoang bụng, được giữ bằng màng
bụng. Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào tuổi và
loại gia cầm. Ở gà một ngày tuổi có kích thước 1 - 2mm, khối lượng
0,03g. Gà ở thời kỳ đẻ, buồng trứng hình chùm nho, chứa nhiều tế
bào trứng có khối lượng 45 - 55g. Sự hình thành buồng trứng kể cả
các tuyến sinh dục xảy ra vào thời kỳ đầu của sự phát triển phôi
(phôi gà vào ngày thứ 3). Trong buồng trứng có chất vỏ và chất huỷ.
Bề mặt vỏ được phủ bằng lớp biểu mô có lớp tế bào hình trụ. Dưới
chúng có màng cứng liên kết mỏng, sau nó có hai lớp nang với các
tế bào trứng. Chất tuỷ nằm ở buồng trứng và được cấu tạo từ mô
liên kết với một lượng mạch máu và dây thần kinh lớn. Trong chất
tuỷ có những chất được phủ bằng lớp biểu mô dẹt và tế bào kẽ. Mỗi
lứa tuổi xảy ra những thay đổi về cấu trúc và chức năng.
* Chức năng sinh lý của buồng trứng gia cầm mái
Chức năng của buồng trứng là tạo trứng. Trong quá trình phát
triển của tế bào trứng có 3 thời kỳ: Tăng sinh, sinh trưởng và chín.
- Thời kỳ tăng sinh: Trước khi bắt đầu đẻ trứng trong buồng

145
trứng ở gà mái có khoảng 3500 - 4000 tế bào trứng, mỗi tế bào trứng
có một noãn hoàng và nhìn thấy được qua soi kính lúp. Trên gà

Leghorn: 3800, gà Rốt: 3200 (Theo nghiên cứu của trung tâm
NCGC Vạn Phúc - 1986). Trong tế bào trứng (phần noãn hoàng) có
nhân to với những hạt nhỏ và thể nhiễm sắc. Trong noãn hoàng có
chứa nhân tế bào.
- Thời kỳ sinh trưởng: Tế bào trứng tăng trưởng nhanh, đặc
trưng bằng tăng nhanh lòng đỏ trong nó. Trong khoảng thời gian 3-
14 ngày, lòng đỏ chiếm 90 - 95% khối lượng tế bào trứng, thành
phần gồm protit, photpholipit, mỡ, các chất khoáng và vitamin. Đặc
biệt lòng đỏ được tích luỹ mạnh vào ngày thứ 9 và 4 ngày trước khi
rụng trứng. Lòng đỏ được bao bởi lớp màng long đỏ có tính đàn hồi.
Lòng đỏ sẫm (đậm) được tích luỹ ban ngày đến nửa đêm, còn lòng
đỏ sáng (nhạt) hình thành ở phần còn lại của ban đêm. Việc tăng quá
trình sinh trưởng của tế bào là do ảnh hưởng của foliculin được chế
tiết ở buồng trứng khi thành thục sinh dục. Vào cuối thời kỳ phát
triển của tế bào trứng giữa vỏ lòng đỏ của nó và thành nang xuất
hiện khoang gần lòng đỏ chứa đầy limpho.
Màu của lòng đỏ phụ thuộc vào sắc tố trong máu, từ thức ăn
mang lại. Khi gà ăn nhiều, thức ăn chứa carotenoit thì lòng đỏ màu
đậm. Như vậy, tuỳ theo màu của lòng đỏ có thể xác định hàm lượng
vitamin của trứng.
- Thời kỳ chín của noãn hoàng (thời kỳ cuối hình thành
trứng). Thời kỳ này có sự phân bào giảm nhiễm, số nhiễm sắc thể
của trứng từ 2n giảm còn n. Trong quá trình phân chia giảm nhiễm
xảy ra sự trao đổi các thành phần di truyền giữa các dị nhiễm sắc thể.
Nhiễm sắc thể xích lại gần nhau và tạo thành đôi. Vào thời kỳ kết
hợp nhiễm sắc thể trao đổi thành phần của mình. Quá trình này có ý
nghĩa quan trọng trong việc di truyền các tính trạng di truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác.

146

* Sự rụng trứng, cơ chế điều hoà quá trình phát triển và rụng
trứng
Tế bào trứng rời khỏi buồng trứng gọi là rụng trứng, nang
trứng chín do áp suất nang trứng tăng lên dẫn tới phá vỡ vách nang
tại vùng lỗ hở. Tế bào trứng cùng lúc đó tách khỏi buồng trứng và
ngay lập tức được loa kèn của ống dẫn trứng hứng lấy và hút vào
lòng loa kèn. Tinh trùng gặp tế bào trứng và thụ tinh tại phần loa kèn
này.
Sự rụng trứng của gà xảy ra một lần trong ngày, nếu trứng đẻ
vào cuối buổi chiều thì sự rụng trứng thực hiện vào sáng hôm sau.
Trứng được giữ lại trong ống dẫn trứng làm ngừng sự rụng trứng
tiếp theo. Sự rụng trứng gà thường xảy ra từ 2 - 14 giờ.
Chu kỳ rụng trứng phụ thuộc nhiều yếu tố: Điều kiện nuôi
dưỡng chăm sóc, lứa tuổi và trạng thái sinh lý của gia cầm
Các hormon hướng sinh dục của tuyến yên: FSH (Fuliculo
Stimulin Hoocmone) và LH (Luteino stimulin Hoocmone) kích thích
sự sinh trưởng và chín của trứng. Còn nang trứng tiết ra oestrogen
trước khi rụng, kích thích hoạt động của ống dẫn trứng. Oestrogen
ảnh hưởng lên tuyến yên ức chế FSH và LH. Như vậy tế bào trứng
phát triển và chín chậm lại làm ngừng rụng trứng khi trứng còn nằm
trong ống dẫn trứng hoặc tử cung.
Gà mái vào 2 tuần đầu của giai đoạn đẻ trứng thứ nhất (5-45
tuần tuổi) thường mỗi cá thể gặp 2-3 lần đẻ trứng 2 lòng đỏ. Đó là do
khi gà mái bắt đầu vào đẻ nhiều tế bào trứng phát triển, chín và rụng.
Ngoài ra LH chỉ tiết vào buổi từ lúc bắt đầu tiết đến lúc rụng trứng 6
- 8 giờ. Vì vậy việc chiếu sáng bổ sung vào buổi tối làm chậm tiết
LH dẫn đến giảm đi sự rụng trứng 3 - 4 giờ. Việc chiếu sáng bổ sung
3 - 4 giờ buổi tối thực chất để gà đẻ ổn định và tập trung vào khoảng
8-11 giờ. Nếu không bảo đảm đủ thời gian chiếu sáng 15 - 18 giờ
trong một ngày. Không những làm gà đẻ rải rác mà con giảm năng

suất trứng.

147
Như vậy điều hoà sự rụng trứng là do yếu tố thần kinh thể
dịch ở tuyến yên và buồng trứng phụ trách. Ngoài ra còn có vỏ bán
cầu đại não tham gia vào quá trình này.
6.1.1.2. Ống dẫn trứng
* Cấu tạo ống dẫn trứng(xem chương 2)
* Chức năng ống dẫn trứng
Chức năng của ống dẫn trứng chủ yếu là nhận tế bào trứng
rụng (thực chất là khối long đỏ trứng), hình thành nên các thành
phần khác của trứng (lòng trắng bao quanh lòng đỏ, màng dưới vỏ
và vỏ cứng của trứng ) tạo nên quả trứng hoàn chỉnh và nhu động
giúp trứng di chuyển từ loa kèn đến âm đạo. Chức năng cụ thể của
từng bộ phận như sau:
Loa kèn có nhiệm vụ hứng tế bào trứng, nhu động tạo ra lực
đẩy tế bào trứng xuống phần ống dẫn. Niêm mạc loa kèn tiết ra chất
tiết có tác dụng bảo tồn tinh trùng. Tại loa kèn tinh trùng có thể sống
được 30 ngày và có khả năng thụ tinh tốt nhất trong 7 ngày.
Phần phân tiết lòng trắng tiết ra khoảng 50% chất lòng trắng
đặc và lòng trắng loãng. Lòng trắng này bao quanh lòng đỏ. Đi qua
phần đầu của phần phân tiết lòng trắng, lòng đỏ quay chậm, dịch
nhầy bao quanh tạo dây chằng albumin, giữ lòng đỏ ở tâm trứng. Sát
với lòng đỏ có lớp lòng trắng loãng bao quanh.
Phần eo của ống dẫn trứng tạo ra dung dịch muối đi vào lòng
trắng. Trứng nằm ở đoạn này một giờ. Ở tại đây lớp lòng trắng loãng
được bổ sung và tạo màng vỏ trứng.
Tử cung là phần dài nhất của ống dẫn trứng. Ở đây trứng
được hình thành hoàn toàn. Khối lượng trứng tăng gấp đôi. Vỏ cứng
của trứng được tạo thành bao quanh lòng trắng. Vỏ cứng cấu tạo bởi

các sợi colagen nhỏ đan chéo dày lên nhau, thấm các chất vô cơ
(muối canxi - cacbonatcanxi chiếm 99% và canxi photphat chiếm
1%) được tổng hợp trong suốt thời gian trứng hình thành ở tử cung
khoảng 18 - 20 giờ.

148
Bên ngoài vỏ cứng phủ một lớp màng mỏng, gọi là màng mỡ
tráng ngoài vỏ cứng. Chất màng nhầy này tiết ra từ tế bào biểu mô
âm đạo, trước khi trứng được đẻ ra.
Men cacbonhydrase và photphatase kiềm tham gia vào quá
trình hình thành vỏ trứng. Khi gà đẻ lượng cacbonhydrase nhiều hơn
hẳn so với gà không đẻ. Trứng vỏ mềm hoặc trứng vỏ cứng là do
chất ức chế men cacbonhydrase gây ra. Đó là sunfanilamit (Bùi Đức
Lũng - 2002).
Từ một tế bào trứng trên buồng trứng, sau khi rụng, rơi vào
loa kèn, di chuyển qua các phần của ống dẫn trứng hình thành một
quả trứng hoàn chỉnh như chúng ta thường gặp. Qua trình hình thành
trứng là phức tạp và diễn ra trong thời gian dài (hơn 24 giờ).

6.1.2. Chức năng sinh lý của cơ quan sinh dục gà trống
* Cấu tạo cơ quan sinh dục gà trống
Cơ quan sinh dục của gà trống bao gồm tinh hoàn, mào tinh
hoàn, ống dẫn tinh và ổ nhớp (xem thêm chương 2).
- Tinh hoàn có hình ovan hoặc hạt đậu, màu trắng nằm trong
xoang bụng và trước thận. Ở gà trống trưởng thành trong thời gian
hoạt động sinh dục tinh hoàn dài 4,7 chiều rộng 2,7 và chiều dày
2,5cm. Khối lượng 17- 19g thời kỳ thay lông còn 3 - 5g.
Tinh hoàn được bao bọc bởi một lớp màng màu trắng, mỏng.
Những ống dẫn tinh gấp khúc nối với nhau tạo thành mạng lưới dày.
Những phần riêng biệt của ống dẫn tinh hơi phình to. Ở đây diễn ra

sự tạo thành tế bào sinh dục. Trên bề mặt cắt ngang của ống gấp
khúc ta thấy lớp ngoài cùng là mô liên kết hình sợi. Bên trong có 5-
6 lớp tế bào tạo thành độ dày thành ống. Giữa các lớp đó có những tế
bào hình chóp Sertoly, chân tế bào này nằm ở màng đáy, còn đỉnh
của chúng hướng vào ống dẫn tinh. Những tế bào này đảm nhận
chức năng dinh dưỡng, giữa chúng có tế bào tinh ở các giai đoạn
phát triển khác nhau. Gần màng đáy ống dẫn tinh là tế bào sinh dục

149
cấp I, trên đó là tế bào cấp II sau đó là đến tiền tinh trùng và tinh
trùng. Tinh trùng trưởng thành đi vào ống sinh tinh nhỏ từ đó vào
mào tinh hoàn và ống dẫn tinh.
- Mào tinh hoàn ở gia cầm phát triển yếu, một số lượng ống
dẫn tinh từ màng dưới tinh hoàn ăn sâu vào đó. Những ống nhỏ này
tạo thành ống dẫn là nơi bắt đầu của ống dẫn tinh. Trong mào tinh
hoàn tinh trùng tiếp tục thành thục và tăng thêm khả năng hoạt động
của chúng. Dịch tinh trùng được hình thành ở những ống gấp khúc
trong tinh hoàn. Nó tạo ra môi trường cần thiết để đảm bảo hoạt
động sống của tế bào sinh dục đực.
- Ống dẫn tinh có dạng hình ống nhỏ gấp khúc, thành ống có
cấu tạo bởi lớp niêm mạc, cơ và thanh mạc. Ống dẫn tinh nối với
ống mào tinh và vào tận giữa của ổ nhớp. Phần cuối cùng của ống
dẫn tinh là chỗ phình hình bong bong gọi là bể tinh. Đây là nơi tích
tụ tinh trùng. Trong lỗ huyệt ống dẫn tinh được kết thúc bằng những
gờ nhỏ nằm ở phía ngoài của ống dẫn niệu. Ống dẫn tinh có cấu trúc
thay đổi phụ thuộc vào trạng thái sinh lý và chức năng của bộ máy
sinh dục. Trong thời gian sinh dục hoạt động ống dẫn tinh to ra,
thành ống dày lên, tăng số lượng gấp khúc. Cơ quan giao cấu của gà
trống không phát triển. Nó chỉ là chỗ phình hình bong bóng của ống
dẫn tinh. Khi giao phối ổ nhớp của con trống áp sát vào lỗ huyệt con

mái, lúc này âm đạo mở ra. Tinh trùng được phóng vào âm đạo và đi
vào trong tử cung.
* Sự tạo thành tinh trùng
Quá trình phát triển của tế bào sinh dục đực được chia làm 4
giai đoạn: sinh sản, sinh trưởng, phát triển và thành thục.
- Giai đoạn sinh sản: Giai đoạn này nguyên bào ở màng đáy
thành ống được phân chia giảm nhiễm nhiều cấp hình thành tế bào
cấp I. Một phần trong số đó ngừng sinh sản và bắt đầu vào giai đoạn
sinh trưởng.
- Giai đoạn sinh trưởng: Các tế bào cấp I, nhờ các chất dinh

150
dưỡng của ống dẫn, tế bào tăng về kích thước. Trong nhân tế bào
hình thành từng đôi nhiễm sắc thể, rồi sau đó chúng xích lại gần
nhau. Thời điểm này chất dinh dưỡng đi vào nguyên bào giảm dần
và giai đoạn sinh trưởng kết thúc.
- Giai đoạn phát triển: Giai đoạn này gồm 2 lần phân chia tế
bào liên tục. Tinh bào cấp I phân chia thành 2 tinh bào cấp II, rồi
phân chia lần thứ 2 thành 4 tinh bào - tiền tinh trùng. Trong nhân
tiền tinh trùng chứa 1/2 số nhiễm sắc thể (n). Như vậy một tinh
nguyên bào phân chia thành 4 tinh tử. Hình dạng tinh trùng các loại
gia cầm (hình 5.1).

Hình 5.1: Tinh trùng của các loài gia cầm khác nhau
A. Gà trống B. Vịt đực C. Đầu tinh trùng ngỗng đực
1. Đầu; 2. Cổ; 3. Phần liên kết; 4. Phần giữa; 5. Đuôi.

151
- Giai đoạn thành thục tinh trùng: Giai đoạn này đầu tiên
nhân lệch về một phía tế bào. Tương bào dãn ra. Tâm tế bào vuông

góc với bề mặt của nhân. Nhân đó được bao phủ chỉ một lớp mỏng
tương bào. Phần này của tế bào được tạo thành phần đầu tinh trùng.
Phần kéo dài của tế bào, hình thành đuôi tinh trùng, chung quanh có
bào tương co bóp được.
Tinh trùng thành thục, ở đầu được bọc lớp bào tương. Tinh
trùng được thành thục trong tế bào Sertoly trong ống sinh tinh, sau
đó chúng đi từ ống sinh tinh gấp khúc di chuyển đến mào tinh hoàn
vào ống dẫn tinh. Tinh trùng nằm trong ống sinh tinh của tinh hoàn
không có khả năng thụ tinh và không chuyển động. Tinh trùng nằm
ở mào tinh hoàn có khả năng thụ tinh thấp hơn ở ống dẫn tinh. Thời
gian tinh trùng thành thục là 14 - 15 ngày.

6.1.3. Cấu tạo và thành phần của trứng (xem chương 2).
6.2. Sự phát dục của phôi gia cầm
6.2.1. Thời gian phát dục của phôi gia cầm
Trứng gia cầm nếu được thụ tinh (có phôi) sau khi đẻ ra phải
đặt trong điều kiện nhất định, phôi mới tiếp tục phát dục, từng bước
hình thành cơ thể gia cầm con hoàn chỉnh và mổ vỏ ra khỏi vỏ trứng.
Các loại gia cầm khác nhau cần thời gian phát dục của phôi (thời
gian ấp trứng) khác nhau và đòi hỏi các điều kiện cũng không hoàn
toàn như nhau. Nghiên cứu quá trình phát dục của phôi giúp ta tạo
được điều kiện ấp trứng phù hợp, nhất là trong ấp trứng nhân tạo, để
có tỷ lệ ấp nở cao và gia cầm con khoẻ mạnh. Thời gian ấp trứng các
loại gia cầm thể hiện trên bảng 5.1.
Bảng 5.1: Thời gian ấp trứng các loại gia cầm
Loài gia
cầm
Thời gian
ấp (ngày)
Loài gia cầm

Thời gian
ấp (ngày)

20-21
Gà tây
26-28
Vịt
26-28
Ngan
33-35

152
Ngỗng
33-35
Chim cút (Bobwhite)
22-24
Đà điểu
40-42
Chim bồ câu (Pigeon)
17-19

Thời gian ấp trứng nêu trên là thời gian trung bình. Gia cầm
có thể nở sớm hoặc muộn hơn vài giờ, phụ thuộc vào điều kiện ấp
trứng, chất lượng trứng giống, khối lượng trứng,…
6.2.2. Điều kiện cần thiết cho sự phát triền của phôi gia cầm
Trứng gia cầm được thụ tinh sau khi đẻ ra được đặt trong
những điều kiện thích hợp sẽ phát dục và hình thành cơ thể gia cầm
con hoàn chỉnh, mổ vỏ ra khỏi vỏ trứng và tiếp tục quá trình phát
triển. Các điều kiện cần cho sự phát triển phôi gia cầm đó là:
- Nhiệt độ. Nhiệt độ là điều kiện cần thiết đầu tiên và quan

trọng nhất cho sự phát triển của phôi gia cầm. Nhiệt độ trong ấp
trứng thích hợp cho sự phát triển phôi là 37,5-37,8
0
C. Tuy vậy ở các
đối tượng gia cầm khác nhau (gà, vịt, gà tây, ngan, ngỗng, chim cút,
đà điểu) cần có sự điều chỉnh tăng, giảm 1-2
0
C. Trứng ở các giai
đoạn ấp khác nhau yêu cầu nhiệt độ cũng khác nhau. Thường tuần ấp
đầu do phôi phát dục nhanh, nhưng còn nhỏ, khả năng điều tiết nhiệt
kém vì vậy nhiệt độ ấp phải hơi cao và ổn định (37,7-37,8
0
C), tuần
giữa, phôi đã hình thành, trao đổi chất mạnh, tự sản sinh nhiệt vì vậy
nhiệt độ ấp trứng thấp hơn chút ít so với giai đoạn đầu. Giai đoạn ấp
cuối, phôi vận động mạnh, điều tiết nhiệt tốt, nhiệt độ ấp trứng cần
cao (37,8- 38
0
C) giúp gia cầm con dễ nở. Tuỳ theo loại trứng ấp mà
chế độ nhiệt được đặt trước (máy ấp điện) hoặc điều chỉnh trong quá
trình ấp (máy ấp thủ công).
- Ẩm độ. Ẩm độ là yếu tố thứ hai sau nhiệt độ ảnh hưởng
nhiều đến tỷ lệ ấp nở. Ẩm độ thích hợp là 60-75%. Điều tiết tốt ẩm
độ có thể làm tăng tỷ lên nở. Tuần đầu do phôi bắt đầu phát dục,
nhiệt độ ấp trứng cao, phôi cần nhiều nước nên ẩm độ máy ấp cần
cao (75-80%). Tuần giữa, phôi sinh nhiệt, trao đổi chất mạnh, ẩm độ
máy ấp giảm xuống còn 50-55%, tạo điều kiện cho hơi nước bốc ra

153
từ trứng mang theo khí độc, NH

3
thải độc cho phôi. Giai đoạn cuối
ẩm độ tăng cao (75-80%) để gia cầm không bị dính lông vào vỏ, dễ
nở.
- Đảo trứng. Đảo trứng trong quá trính ấp có tác dụng giúp
phôi hấp thu đều nhiệt, kích thích sự phát triển phôi và phôi không bị
dính sát vào vỏ trứng, làm tăng tỷ lệ nở. Đảo trứng giai đoạn đầu tác
dụng tốt hơn giai đoạn sau của qúa trình ấp. Chế độ đảo trứng của
mỗi loại máy ấp có khác nhau. Thường tuần đầu đảo trứng 1-2 giờ
một lần, tức là 12-24 lần/ngày đêm, sau đó giảm dần số lần đảo
trứng trong ngày.
- Thông thoáng, làm mát trứng. Trong quá trình phát triển
phôi cần không khí sạch (O
2
) và thải khí độc CO
2
, NH
3
Lượng
CO
2
không vượt quá 0,2-0,4%. Thông thoáng máy ấp giúp đạt được
mục đích này. Trong ấp trứng thủ công thường kết hợp thông thoáng
với làm mát trứng và đảo trứng. Khi đó người ta đưa trứng ra khỏi
máy ấp hoặc mở cửa máy ấp. Thông thoáng giai đoạn cuối có ý
nghĩa hơn ở giai đoạn ấp đầu. Thời gian làm mát trứng từ 20-60 phút
tùy theo loại máy ấp và điều kiện ấp cụ thể.

Các điều kiện trên đây cần được theo dõi trong suốt quá trính
ấp và điều chỉnh cho phù hợp với trứng của các đối tượng gia cầm

khác nhau, loại máy ấp cụ thể và từ kinh nghiệm của kỹ thuật viên
trong ấp trứng.

6.2.3. Quá trình phát triển phôi gia cầm trong quá trình ấp
trứng
Trứng được thụ tinh ở phần đầu của ống dẫn trứng và di
chuyển tiếp xuống các phần tiếp theo. Trong quá trình đó phôi phân
chia, diễn ra quá trình phát dục nhanh trước khi được đẻ ra ngoài cơ
thể mẹ. Ngoài cơ thể mẹ, dưới 20 độ C được xem là ''độ không sinh
lý'' (physiologycal zero) của phôi gia cầm. Ở nhiệt độ này phôi

154
ngừng phát dục trong một vài ngày. Trứng gia cầm đẻ ra, đặt trong
những điều kiện thích hợp phôi sẽ tiếp tục phát triển và hình thành
gia cầm con. Sự hình thành các mầm cơ quan, bắt đầu từ các lá phôi
được tóm tắt như sau (theo Bùi Đức Lũng - 2002),(hình 5.2).

Hình 5.2: Sự hình thành phôi từ đĩa phôi và sự tạo thành các
màng phôi
( theo Hertler)
1.Lòng trắng
7. Màng serosa
2.Nếp gấp màng ối trước
8. Màng ối
3.Phôi
9. Đầu
4.Buồng khí
10. Túi niệu
5.Nếp gấp màng ối sau
11. Túi lòng đỏ

6.Mấm tim
12. Vòng

13. Lòng đỏ dinh dưỡng
Ngày đầu: 6 giờ sau khi ấp phôi gà dài 0,5mm, hình thành
nếp thần kinh trên dây sống nguyên thuỷ. Sau 24 giờ nếp thần kinh
tạo thành ống thần kinh và hình thành 5- 6 đốt thân.
Ngày thứ 2: phôi tiếp tục phát triển tạo thành hệ thống mạch
máu bên ngoài bào thai. Bắt đầu xuất hiện mầm tim. Mạch máu bao
quanh lòng đỏ (noãn hoàng). Chất dinh dưỡng của noãn hoàng cung
cấp cho phôi.
Ngày thứ 3: bắt đầu hình thành đầu, cổ và ngực của phôi. Từ

155
đó màng ối, màng nhung phân chia thành 2 màng túi, màng ở ngoài
là màng nhung, màng trong là màng ối. Hai màng này dính liền với
nhau. Qua ngày thứ 3 hình thành gan và phổi.
Ngày thứ 4: phôi có dạng như ở bào thai động vật bậc cao, độ
dài phôi 8mm.
Ngày thứ 5: phôi phát triển tăng dần, có chiều dài 12mm.
Nhìn bề ngoài có hình dáng của loài chim.
Ngày thứ 6: kích thước phôi đạt 16mm. Mạch máu phủ nhiều
qua phôi, trông như màng nhện, ngày này tiến hành kiểm tra sinh vật
học lần thứ nhất để loại trứng chết phôi và trứng không phôi.
Ngày thứ 7: vòng rốn biểu mô màng ối biến thành da phôi.
Trong màng ối hình thành huyết quản. Thành màng ối xuất hiện cơ
trơn để màng có thể co bóp được. Phôi phát dục trong môi trường
nước của màng ối. Nước ối vừa chứa chất dinh dưỡng, vừa chứa cả
amoniac và axit uric của phôi thải ra. Đã hình thành ống mật và dạ
dày, chất dinh dưỡng đã qua đó.

Ngày thứ 8: cánh và chân đã rõ nét, phần thân đã phủ xuống
đến ức, lông đã nhú ở lưng, phôi dài 18mm.
Ngày thứ 9: lông mọc nhiều ở vùng lưng, phía ngoài đùi và
cánh. Lòng trắng thu nhỏ lại ở phía đầu nhọn của trứng.
Ngày thứ 10: chất dinh dưỡng bắt đầu được hấp thu vào ống
ruột.
Ngày thứ 11: phôi dài 25mm, đã mang hình dáng gà con, mỏ,
móng chân sừng hoá hoàn toàn, phần thân lớn lên câu đối hơn. Lòng
trắng thu nhỏ ở đầu nhỏ của trứng, các túi phôi hoàn thiện, tiết
enzyme chuyển hoá albumin và Canxi thành chất dễ hấp thu để nuôi
phôi, hấp thu Oxy qua vỏ trứng để cung cấp cho phôi. Đồng thời thải
CO
2
và chất thải của thận chuyển ra đổ vào xoang niệu nang thành
dạng khí thải ra ngoài qua các lỗ khí của vỏ trứng.
Ngày thứ 12: huyết quản của túi noãn hoàng phát triển mạnh,
chuyên vận chuyển chất dinh dưỡng đến phôi. Thời kỳ này là quá độ

156
của hô hấp túi niệu. Tế bào cơ, gân phân bố khắp thành niệu nang.
Ngày thứ 13: trên đầu phôi gà xuất hiện lông tơ, chân và mỏ
hình thành vảy.
Ngày thứ 14: phôi lớn chiếm gần hết khoang trứng, phôi đã
cử động được, lông phủ kín toàn thân.
Ngày thứ 15 và 16: kích thước của niệu nang tăng lên tương
ứng với kích thước của phôi. Protein được phôi tiêu thụ gần hết. Sự
hô hấp vẫn nhờ mạch máu của tuần hoàn niệu nang.
Ngày thứ 17, 18 và 19: phôi chiếm toàn bộ khối lượng trứng,
trừ buồng khí.
Ngày thứ 20: mỏ của phôi gà mổ thủng buồng khí. Lúc này

gà con lấy oxy từ buồng khí và qua hệ thống lỗ khí trên bề mặt vỏ
trứng qua đường hô hấp, phổi và mạch máu. Gà con mổ thủng vỏ
trứng.
Ngày thứ 21: Vào đầu của ngày này gà bắt đầu chui khỏi vỏ.
Kết thúc thời kỳ ấp trứng.
Ở các đối tượng gia cầm khác do thời gian phát dục của phôi
khác nhau, nên sự hình thành các cơ quan tương ứng sẽ kéo dài hoặc
ngắn hơn so với thời gian phát dục của phôi gà. Trong quá trình ấp
trứng cần lưu ý tính đặc thù để điều chỉnh chế độ ấp trứng thích hợp
mới cho tỷ lệ ấp nở cao.
Trong 4 ngày đầu của sự phát triển phôi, carbonhydrat là
nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho phôi. Protêin được sử dụng
thay cho carbonhydrat, đồng thời cũng làm tăng sản phẩm phân giải
ure từ 4 đến 9 ngày ấp. Mỡ sẽ là nguồn năng lượng chính của phôi
vào thời gian còn lại của quá trình ấp trứng. Canxi từ vỏ trứng được
sử dụng, nhưng trước hết lấy từ lòng đỏ trứng trong giai đoạn đầu.
6.3. Kỹ thuật ấp trứng gia cầm
Gia cầm có thể được ấp nở tự nhiên (dùng gia cầm mẹ ấp
trứng) hoặc ấp trứng nhân tạo (do con người thực hiện). Việc ấp
trứng gia cầm nhân tạo đã trở thành ngành kinh tế độc lập, quan

157
trong, hiệu quả cao nhờ tiến bộ kỹ thuật cơ khí, điện và tự động hoá.
6.3.1. Ấp trứng tự nhiên. Ấp trứng tự nhiên là dùng gia cầm
mẹ ấp trứng. Thường chọn gà, gà tây, ngan, ngỗng để ấp trứng. Hình
thức ấp trứng tự nhiên chỉ còn thích hợp với chăn nuôi gia đình, quy
mô nhỏ tự túc giống, vì gia cầm mẹ ấp trứng sẽ ngừng đẻ làm sức
sản xuất trứng giảm rõ rệt. Trong ấp trứng tự nhiên cần chú ý: nơi
đặt ổ ấp phải thoáng mát, tránh nắng chiếu, mưa tạt, yên tĩnh và hơi
tối. Gia cầm mẹ phải chọn con say ấp, bộ lông phát triển tốt, chân

không quá cao và không có lông ở chân.Trong quá trình ấp cho gia
cầm mẹ ăn đầy đủ, nhất là thức ăn giàu năng lượng, huấn luyện cho
xuống ổ đúng giờ để bài tiết, tránh thải phân trong ổ trứng, thường
xuyên kiểm tra chuột, thú dữ gây hại trong quá trình ấp.
6.3.2. Ấp trứng nhân tạo. Nghiên cứu kỹ các điều kiện cần
cho sự phát triển của phôi gia cầm, con người đã thực hiện ấp trứng
nhân tạo gia cầm thông qua việc chế tạo các loại tủ ấp, máy ấp, và cả
các lò ấp thủ công bằng trấu, thóc nóng. Ấp trứng nhân tạo mang lại
lợi ích kinh tế cao do giải phóng gia cầm mẹ làm tăng sản lượng
trứng, tiến hành ấp trứng, sản xuất giống quanh năm với quy mô lớn.
Trình độ công nghiệp hoá và chuyên môn hoá cao của ngành ấp
trứng đã thúc đẩy nhanh quá trình chăn nuôi gia cầm công nghiệp,
tạo ra sản phẩm hàng hoá ở quy mô lớn. Hiện nay ở nước ta đang tồn
tại ấp trứng thủ công bằng trấu thóc nóng (chủ yếu các là ấp trứng
vịt với kinh nghiệm cổ truyền); ấp trứng bằng tủ ấp nước nóng, cung
cấp nhiệt nhờ đèn dầu hoặc nguồn điện (quy mô nhỏ ấp trứng chim
cút, gà, vịt); ấp bằng máy ấp điện tự sản xuất trong nước hoặc hệ
máy hiện đại, tự động hoá cao của nước ngoài nhập về (các cơ sở ấp
trứng chuyên cung cấp gia cầm giống, cơ sở ấp trứng quốc doanh
sản xuất giống gốc ). Dưới đây chỉ giới thiêu về máy ấp điện ứng
dụng cho các quy mô ấp trứng khác nhau.



158



Hình 5.3 : Máy ấp trứng quy mô nhỏ tự chế tạo


6.3.2.1. Cấu tạo máy ấp và máy nở trứng gia cầm
* Máy ấp.
Hiện nay có nhiều loại máy ấp trứng với công suất khác nhau,

159
từ 500 quả trứng đến 7-8 vạn quả và nhiều hơn được nhập vào nước
ta, từ Canada, Hungari, Hà Lan, Trung Quốc . . .
Máy ấp công suất nhỏ dưới 1.000 quả thường được dùng cho
gia đình hoặc phòng thí nghiệm nghiên cứu. Còn trong sản xuất công
nghiệp của các doanh nghiệp hoặc tổ hợp sản xuất thường dùng các
loại máy với công suất lớn từ 1 vạn trứng trở lên.
Tuy khác nhau về hình thức và công suất, cũng như thiết kế
về kỹ thuật, tất cả các loại máy ấp đều tuân theo một nguyên lý
chung và phải gồm các bộ phận: Vỏ máy, bảng điều khiển tự động,
giá đỡ khay, khay trứng, hệ thống cung cấp và điều tiết nhiệt độ, ẩm
độ, cung cấp không khí, đảo trứng và hệ thống bảo vệ. Các hệ thống
thiết bị tạo nên máy ấp phải đáp ứng thoả mãn các điều kiện cần cho
sự phát triển của phôi đó là nhiệt độ, ẩm độ, không khí sạch
1). Vỏ máy
Vỏ máy hình chữ nhật. Ở một số máy lớn người ta tận dụng
nền xi măng hoặc gạch lát để làm đáy máy. Vỏ máy có nhiệm vụ
ngăn cách khoang máy với môi trường bên ngoài, giữ nhiệt và ẩm
trong máy ổn định. Vỏ máy làm bằng nguyên liệu chịu lực và cách
nhiệt. Vỏ máy gồm 2 lớp, giữa để trống, nhét mùn cưa hoặc bông
thuỷ tinh hoặc bột xốp để cách nhiệt. Vỏ máy làm bằng gỗ dán
thường chóng hỏng, dễ hút ẩm và mất vệ sinh. Máy ấp trứng thế hệ
mới của Hà Lan, Úc, Trung Quốc vỏ máy thường làm bằng hợp
kim nhôm hoặc nhựa.
2). Bảng điều khiển
Bảng điều khiển tập trung các nút điều khiển các hoạt động

của máy được lắp đặt bên trên, mặt trước của máy.
Bảng điều khiển có công tắc tổng để bật tắt máy, có các nút
để tăng thêm nhiệt, để đảo trứng và các đèn hiệu để báo bộ phận
nào của máy đang làm việc hoặc không làm việc.
3). Giá đỡ khay và khay đựng trứng
Giá đỡ khay là một giàn các khung đỡ các khay đựng trứng.

160
Các giá đỡ khay có kích thước sao cho các khay đựng trứng nằm vừa
khít ở bên trong lòng của nó. Tuy có cùng mục đích nhưng ở các
máy khác nhau, giá đỡ khay có thể khác nhau, chủ yếu phụ thuộc
vào thiết kế của máy. Đối với giá đỡ cố định, giàn đỡ khay có hình
dáng cố định, không bị thay đổi khi máy đảo trứng. Vì vậy toàn bộ
giàn đỡ khay được lắp trên một trục chạy qua tâm của giàn. Khi đảo
trứng có giàn đỡ cố định này thường chỉ có ở các máy công suất vừa
và nhỏ dưới 1vạn trứng. Còn giá đỡ có khớp mềm thường gặp ở các
máy có công suất lớn, giàn giá đỡ tự nó chuyển động và thay đổi
hình dạng khi máy đảo trứng. Trong máy thường chia ra làm nhiều
cột giá đỡ, cột giá đỡ có từ 12 - 15 tầng, mỗi tầng giá đỡ một khay
trứng (Hình 5.4, 5.5).


Hình 5.4: Máy ấp trứng công suất lớn



161

Hình 5. 5: Máy ấp trứng công suất trung bình đã vào trứng


Khay đựng trứng ở máy ấy gọi là khay ấp (Hình 5.6). Khay
ấp trứng đưa vào ấp phải giữ cho tất cả các trứng ở trong khay nằm
theo thứ tự nhất định, đầu nhỏ của trứng xuống dưới, đầu to lên trên.
Khay ấp có thể làm bằng gỗ, bằng kim loại khác nhau. Những máy
thế hệ mới, khay ấp làm bằng nhựa, nhẹ, bền, sạch. Sức chứa trứng
các khay ấp cũng khác nhau theo công suất máy và kích cỡ máy.
Mỗi khay ấp chứa 80 hoặc 180 quả trứng gà. Có một số loại máy,
khay không cố định. Đáy khay là một mặt phẳng có đục lỗ để đảm
bảo độ thông thoáng. Loại khay này có ưu điểm là chứa được nhiều
trứng hơn. Nhưng nhược điểm, xếp trứng và loại trứng khó hơn. Tuy
vậy khay ấp có lỗ hiện nay là tiên tiến nhất.


162

Hình 5. 6: Khay ấp đã xếp đủ trứng trƣớc khi đƣa vào máy ấp

4).Hệ thống đảo trứng
Để các phôi trong trứng phát triển bình thường và không bị
sát vào vỏ, trong quá trình ấp máy phải đảo trứng. Ở các máy ấp
công nghiệp việc đảo trứng được thực hiện bằng hai cách, đó là dùng
môtơ hoặc dùng khí nén.
Hệ thống đảo môtơ hoạt động một đồng hồ thời gian chạy
bằng điện sẽ đúng chu kỳ 1 - 2 giờ một lần bật môtơ. Khi môtơ đảo
hoạt động sẽ làm quay bánh răng hoặc cần đảo, rồi làm xoay trục
đảo hoặc kéo các quang treo về một phía làm các giá đỡ khay
nghiêng đi. Khi góc đảo đạt yêu cầu 45
0
C, công tắc giới hạn sẽ tự
động làm ngừng môtơ đảo, để kỳ sau đảo ngược lại.

5). Hệ thống làm thông khí
Thông thoáng không khí là một vấn đề hết sức quan trọng ở
máy ấp công nghiệp. Độ thông khí ảnh hưởng trực tiếp đến cân bằng
nhiệt, tới độ ẩm và nồng độ O
2
, CO
2
trong máy. Hệ thống thông khí
được chia thành 3 phần: Quạt gió, lỗ hút khí, lỗ thoát khí.
Các máy ấp thường chỉ có 1 lỗ hút khí, được đặt ở trước,

163
hoặc mặt sau, hoặc trên nóc máy nhưng không gần lỗ thoát khí.
Không khí qua lỗ này đi theo đường ống vào phía sau quạt gió. Quạt
quay, tạo ra lực hút trong ống và đẩy không khí sạch vào mọi vị trí
của máy.

Hình 5.7: Tủ chứa trứng trƣớc khi đƣa vào máy
Lỗ thoát khí có thể là một hoặc nhiều lỗ thông ra ngoài máy,
để thoát khí bẩn chứa CO
2
ra ngoài. Lỗ thoát khí được đặt trên nóc
hoặc bên hông của máy.
Quạt máy trong khi ấp có nhiệm vụ đảo đều không khí trong
máy, đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm ở các vị trí trong máy xấp xỉ nhau.
Quạt có sải cánh dài có tốc độ 800 - 1000 vòng/phút, thường một
máy ấp chỉ lắp một quạt. Quạt có sải cánh nhỏ có tốc độ trên 1700
vòng/phút. Tuỳ loại máy, quạt có thể lắp phía sau, trên nóc máy. Ở
máy ấp đa kỳ hệ thống quạt được lắp phía cửa vào và thổi khí về
phía cửa ra.

6). Hệ thống cấp nhiệt
Để cấp và làm ổn định nhiệt trong máy ấp, người ta dùng các
thiết bị cảm nhiệt hoặc nhiệt kế công tắc hoặc màng ête và dây
mayso cấp nhiệt.

164
Cảm nhiệt là thiết bị hiện đại có mức độ tin cậy cao, độ chính
xác lớn. Cảm nhiệt hoạt động sẽ truyền tín hiệu về làm đóng, ngắt
dây mayso đang đốt nóng ở nhiệt độ nhất định.
Nhiệt kế công tắc là thiết bị vừa làm nhiệm vụ đo nhiệt độ,
vừa làm công tắc tự động đóng, ngắt mạch điện. Còn đối với màng
ête giãn nở, hoặc co lại làm thay đổi bề dày của lá đồng và làm nối
hoặc ngắt mạch điện điều khiển.
Dây mayso là dây điện trở, mà khi có dòng điện chạy qua sẽ
được đốt nóng lên và toả nhiệt nhiều. Ngày nay dây mayso trong
máy ấp thường được bọc lớp cách điện, bền, an toàn, không bị oxy
hoá khi tiếp xúc với hoá chất và nước.
7). Hệ thống tạo ẩm
Mỗi loại máy có thiết bị tạo ẩm khác nhau. Tuy nhiên theo
nguyên tắc chung chỉ có 2 dạng là thiết bị phun sương nước và dùng
diện tích bề mặt bay hơi nước.
Để điều khiển ẩm độ, trong máy được đặt ẩm kế hoặc nhiệt
kế bấc ẩm. Loại ẩm kế này được chế tạo đặc biệt, liên hệ với thiết bị
làm ẩm. Đối với máy ấp dùng thiết bị tạo ẩm bằng phun sương mù
thì nước vào máy cần có áp suất cao. Nếu loại máy dùng diện tích bề
mặt bay hơi, thì nước vào máy không cần áp suất lớn như máy phun
sương mà chỉ thay đổi diện tích bề mặt bay hơi nước.
8). Hệ thống bảo vệ
Hệ thống bảo vệ trong máy ấp bao gồm các thiết bị được lắp
đặt nhằm ngăn chặn hoặc thông báo trước các sự cố có thể xảy ra

làm hỏng máy hoặc trứng ấp. Tín hiệu dễ nhận thấy là chuông báo
động kêu vang và đèn đỏ bật sáng.
Ngoài ra, đa số máy ấp công nghiệp lắp hệ thống báo động tự
động chế độ không khí, chuông điện, đèn báo, cầu chì tự động cho
từng thiết bị

165

Hình 5.8: Máy nở dung lƣợng trung bình
* Máy nở
Máy nở có kết cấu và các thiết bị điều hoà hệ thống cấp nhiệt,
cấp ẩm và cấp không khí như ở máy ấp (Hình 5.8) chỉ khác giá đỡ
khay nở là cố định.
Khay đặt trứng vào máy nở gọi là khay nở, khác khay ấp
khay nở không có các thành ngăn ngang dọc để đặt cố định quả
trứng. Khay nở có thành xung quanh cao 8 - 9cm. Đáy khay là lưới
với nhiều lỗ nhỏ đường kính 2mm và thành khay có đục lỗ.

Hình 5.9: Máy nở dung lƣợng lớn

×