Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Chăn nuôi gia cầm part 5 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.78 KB, 28 trang )


113
suất trứng 47 - 53 quả/ mái/ năm khối lượng trứng trung bình 68 -
227 ngày, năng suất trứng 47 - 53 quả/ mái/ năm. Khối lượng trứng
trung bình 68 - 69 g/ quả. Gà mái ấp 18 - 23 quả/ lứa: Tỷ lệ có phôi
cao: 91 - 92%, tỷ lệ nở bình quân 95 - 96%/ trứng ấp. Gà Tây bố
mẹ sinh sản có thể sử dụng tối đa 2 - 3 năm (Theo tài liệu quỹ gen
vật nuôi , 1999), ( Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003).
Gà Tây nội có ngoại hình đẹp, khối lượng cơ thể và trứng
lớn, tỷ lệ nở cao, chất lượng thịt thơm ngon. Nhưng khả năng
chống chịu kém với bệnh tật và thời tiết khắc nghiệt. Thích hợp với
điều kiện chăn nuôi chăn thả và bán chăn thả ở nước ta. Đây là giống
gà kiêm dụng, nuôi vừa sản xuất thịt, vừa lấy trứng. Ngoài ra còn
được dùng để lai với các giống gà địa phương.

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
1. Nguồn gốc và quá trình thuần hóa gia cầm.
2. Sự di truyền các tính trạng màu sắc lông, hình dạng mào ở
gà; sự di truyền các tính trạng số lượng ở gia cầm. Sự di
truyền liên kết với giới tính và ứng dụng trong lai tao gà.
3. Lai tạo và sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi gia cầm. Kể
một số nhóm gà lai năng suất cao của các hãng nổi tiếng
thế giới. Quy trình tạo gà lai năng suất cao.
4. Đặc điểm chính của các giống/dòng gia cầm đang được
nuôi phổ biến hiện nay.










114
CHƢƠNG 4
SỨC SẢN XUẤT Ở GIA CẦM

Sức sản xuất là khả năng cho thịt, trứng, gan, lông ở gia cầm.
Sức sản xuất là tính trạng số lượng được quy định bởi số lượng lớn
các gen (alen) và chịu ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh. Nghiên
cứu về sức sản xuất và các nhân tố ảnh hưởng đến sức sản xuất ở gia
cầm có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm.
4.1- Sức sản xuất trứng (Sức đẻ trứng)
Sức sản xuất trứng còn gọi là sức đẻ trứng ở gia cầm thể hiện
ở các chỉ tiêu: sản lượng trứng, khối lượng trứng, phẩm chất (chất
lượng) trứng.

4.1.1. Sản lượng trứng
Sản lượng trứng là số trứng đẻ ra từ một gia cầm mái trong một
khoảng thời gian nhất định- thường là một năm đẻ trứng (sản lượng
trứng/năm/gia cầm mái). Sản lượng trứng được xác định theo cá thể
(các cơ sở giống bắt buộc phải theo dõi cá thể) hoặc theo nhóm. Sản
lượng trứng cá thể phải theo dõi thông qua đánh số gia cầm và sử
dụng ổ đẻ tự động (ổ sập). Sản lượng trứng theo nhóm, chính là sản
lượng trứng trung bình bằng tổng số trứng thu được trong thời gian
nhất định chia cho số lượng gia cầm mái bình quân trong thời gian
đó. Hiện tồn tại nhiều cách tính sản lượng trứng khác nhau, đó là
tính trên số mái đầu kỳ, tính trên số mái cuối kỳ hay tính trên số mái
bình quân có mặt. Mỗi cách tính đưa ra những sai số nhất định so

với sản lượng trứng thực tế của gia cầm mái. Sản lượng trứng /năm
cũng có nhiều cách xác định khác nhau. Năm đẻ trứng sinh học tính
từ khi gia cầm mái đẻ quả trứng đầu tiên đến ngày đó của năm tiếp
theo. Năm đẻ trứng cũng có thể tính từ 1/X cho đến 31/IX năm tiếp
theo. Một số nước tính sản lượng trứng cho đến khi gia cầm mái đạt

115
500 ngày tuổi. Vì vậy trước khi phân tích, so sánh cần xem cách tính
cụ thể như thế nào, trong trường hợp cụ thể mà số liệu được đưa ra.
4.1.2. Khối lượng trứng
Khối lượng trứng của gia cầm mái được xác định bằng khối
lượng trứng trung bình/năm (g/quả) hoặc khối lượng trứng sản xuất
ra từ một gia cầm mái/ năm (kg trứng). Khối lượng trứng thường
được xác định ở các thời điểm: Khối lượng quả trứng đẻ đầu tiên;
Khối lượng quả trứng đẻ lúc 32 tuần tuổi; Khối lượng quả trứng đẻ
lúc 52 tuần tuổi.
Lúc 32 tuần là lúc sức sản xuất biểu hiện cao nhất, lúc 52 tuần tuổi là
lúc gia cầm hoàn toàn trưởng thành. Để tính khối lượng trứng trung
bình/năm, người ta tính khối lượng trứng trung bình của 10 tháng đẻ
trứng. Ở mỗi tháng đẻ, cân 3 quả trứng rồi lấy khối lượng trung bình.
Ba quả trứng được cân từ một gia cầm mái hoặc khối lượng trứng
trung bình toàn đàn gia cầm mái vào 3 ngày liên tiếp trong tháng,
hoặc 3 ngày với khoảng cách cố định (ví dụ ngày 4, 5, 6 hàng tháng
hoặc ngày 10, 20, 30 hàng tháng). Cân bằng cân kỹ thuật có độ chính
xác 0,1g. Khối lượng trứng trung bình của gà 55-65g, trứng vịt70-
80g, trứng ngỗng 140-200g, trứng gà tây 100-110g, trứng bồ câu
25g, trứng chim cút 16-18g, trứng đà điểu 1000-1200g/quả.
4.1.3. Phẩm chất trứng (chất lượng trứng).
Phẩm chất trứng thể hiện ở nhiều chỉ tiêu: phẩm chất bên ngoài
và phẩm chất bên trong. Các chỉ tiêu bên ngoài của trứng đó là chỉ

số hình dạng, màu sắc vỏ trứng, độ dày vỏ và độ bền vỏ trứng. Chỉ
số bên trong đó là tỷ lệ các thành phần cấu tạo trứng, chỉ số lòng
trắng trứng, chỉ số lòng đỏ trứng, độ đậm của lòng đỏ, tổng hợp chỉ
quan hệ giữa khối lượng và chất lượng lòng trắng trứng là chỉ số
Haugh
- Hình dạng trứng có ý nghĩa quan trọng trong việc ấp trứng
cũng như trong vận chuyển bảo quản trứng thương phẩm. Hình dạng
trứng được đánh giá qua chỉ số hình dạng trứng. Chỉ số hình dạng

116
trứng (I) là tỷ lệ giữa đường kính lớn D (chiều dài) và đường kính
nhỏ d (chiều rộng) của trứng. Đo đường kính lớn (D) và đường kính
nhỏ (d) của trứng bằng thước kẹp.





I = D/d hoặc I = d/D
I: chỉ số hình dạng
D: đường kính lớn
d: đường kính nhỏ


Trứng gà có chỉ số 1,3-1,4 (hoặc 0,73-0,74) là thích hợp, có tỉ lệ dập
vỏ thấp nhất trong quá trình bảo quản, vận chuyển, và cho tỷ lệ ấp
nở cao.
- Độ dày vỏ trứng thu hút sự chú ý lớn của các nhà chăn nuôi
vì nó liên quan đến tỉ lệ dập vỡ và tỉ lệ ấp nở. Trứng có độ dày từ
0,25-0,58mm; phụ thuộc vào loài, giống, cá thể, điều kiện nuôi

dưỡng, bệnh tật. Hệ số di truyền về độ dày vỏ trứng ở mức thấp
0,15-0,3. Phương pháp xác định thông qua đo độ dày vỏ bằng thước
kẹp hoặc thước chuyên dùng đo độ dày vỏ trứng. Đo trên 3 vị trí:
đầu nhọn, giữa, đầu tù của trứng rồi lấy giá trị trung bình. Độ dày vỏ
tỉ lệ thuận với khối lượng trứng.
Xác định độ bền vỏ trứng bằng dụng cụ chuyên dùng đo độ
chịu lực của trứng (kg/cm
2
); trung bình từ 3-5 kg/cm
2
.
- Tỉ lệ trứng dập vỡ (%) có ý nghĩa quan trọng quyết định
hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gà đẻ trứng. Hàng ngày thống kê
ghi chép trứng dập vỡ và tính tỉ lệ %.
D
d

117

Tỉ lệ dập vỡ(%) =

Trứng dập vỡ
Tổng số trứng

X 100

- Màu sắc vỏ trứng được quyết định bởi yếu tố di truyền mạnh hơn
là dinh dưỡng. Ngược lại độ đậm nhạt của lòng đỏ là do sắc tố trong
thức ăn quyết định. Để thay đổi màu vỏ trứng phải thông qua việc
tạo ra các tổ hợp gen mới, còn để thay đổi màu lòng đỏ trứng chỉ cần

thay đổi thành phần khẩu phần ăn. Xu hướng chung hiện nay là tạo
ra gia cầm lai đẻ trứng có vỏ màu (nâu, hồng, nâu xẫm ) thay cho
trứng vỏ trắng. Ở Anh 100% gà đẻ trứng thương phẩm là vỏ màu, ở
Pháp 85%, Đức 80% Vỏ trứng màu thường gắn với bộ lông màu
và thường di truyền liên kết với giới tính.
- Chỉ số lòng đỏ trứng. Chỉ số lòng đỏ trứng là mối quan hệ
giữa chiều cao và đường kính lòng đỏ.
h I: chỉ số lòng đỏ
I = h: chiều cao lòng đỏ
D D: đường kính lòng đỏ
Chỉ số này càng cao thì trứng có phẩm chất càng tốt.
Phương pháp xác định: đập trứng ra đĩa petri đo đường kính và
chiều cao. Chỉ số này thay đổi theo thời gian bảo quản trứng và độ
bền của màng lòng đỏ.
- Chỉ số lòng trắng trứng: Chỉ số lòng trắng trứng là mối quan
hệ giữa chiều cao lòng trắng đặc và trung bình giữa đường kính lớn
và đường kính nhỏ của lòng trắng đặc.
I =
2H
D+ d

H: chiều cao lòng trắng đặc
d: đường kính nhỏ lòng trắng đặc
D: đường kính lớn lòng trắng đặc
Chỉ số này càng cao thì trứng có phẩm chất càng tốt.

118
- Đơn vị Haugh (Chỉ số Haugh - Haugh Unit).
Chỉ số Haugh là chỉ mối quan hệ giữa khối lượng trứng với chiều
cao lòng trắng đặc của trứng, do Haugh xác định và đưa ra công thức

tính đầy đủ:
0,37
G(30w 100
100log[H- 19]
100
HU

Để dễ tính toán, sử dụng công thức rút gọn:

0,37
100log( 1,7w 7,57)HU H

HU : đơn vị Haugh
H: chiều cao lòng trắng đặc; G: Hằng số trọng lực = 32,2.
W: khối lượng trứng
Phương pháp: cân khối lượng trứng, đập ra đo chiều cao lòng
trắng và tra bảng cho sẵn ta có chỉ số Haugh (bảng 4.1). HU càng
cao phẩm chất trứng càng tốt. Trứng chênh lệch 1 – 8 đơn vị Haugh
thì coi như có chất lượng tương tự.
Bảng 4.1: Liên quan giữa chỉ số Haugh với chiều cao lòng trắng
đặc của trứng
Khối lượng trứng (g)


Chiều cao
lòng trắng đặc (mm)
49,9
53,2
56,7
60,2

63,8
10
9
8
7
6
5
4
3
2
102
97
92
87
80
73
64
53
37
101
96
91
86
79
71
62
50
34
100
95

90
84
78
70
60
48
30
99
95
89
83
77
68
58
45
26
98
94
88
82
75
67
56
42
22

119
Chỉ số Haugh
Chiều cao lòng trắng đặc (mm)
100

90
80
70
60
50
40
30
20
9,6
7,6
5,9
4,6
3,6
2,8
2,2
1,6
1,2
9,8
7,8
6,1
4,8
3,8
3,0
2,3
1,8
1,4
10,0
7,9
6,5
5,0

4,0
3,2
2,5
2,0
1,6
10,2
8,1
6,5
5,2
4,2
3,3
2,7
2,2
1,8
10,3
8,3
6,7
5,4
4,3
3,5
2,8
2,3
1,9

Chất lượng trứng của một số dòng gà công nghiệp nuôi ở Việt
Nam những năm qua thể hiện trên bảng 4.2. Kết quả cho thấy gà
công nghiệp nuôi trong điều kiện nóng, ẩm nhưng chất lượng trứng
đạt tương đương so với nguyên gốc (nuôi ở Cu Ba).
Bảng 4.2: Chất lƣợng trứng của một số giống gà nuôi công
nghiệp ở Việt nam


BVX
BVY
XR
XY
Khối lượng trứng (g)
58,7
64,8
58,83
58,0
Chỉ số hình dạng
1,38
1,40
1,39
1,38
Độ chịu lực (kg/cm2)
5,19
2,52
2,81
2,75
Độ dày vỏ (mm)
0,34
0,36
0,35
0,33
Chỉ số lòng đỏ
0,45
0,46
0,43
0,42

Chỉ số lòng trắng
0,09
0,09
0,10
0,09
Đơn vị Haugh
80,5
85,0
83,0
78,0
Trứng dập vỡ (%)
11,0
6,0
-
-

XR: gà lai F1 hướng trứng giữa Lơgo dòng X và Rốt R
XYgà lai F1 hướng trứng giữa Lơgo dòng X và Rốt Y
BVX Lơgo dòng X
BVY Lơgo dòng Y

120

4.1.4. Thành phần cấu tạo trứng gia cầm
Trứng gia cầm là tế bào sinh dục phức tạp được biệt hoá rất
cao, gồm các phần (tính từ trong ra):lòng đỏ, lòng trắng, màng dưới
vỏ, vỏ cứng và có một lớp nhầy (màng mỡ) bao bọc, phủ ngoài vỏ
trứng khi được đẻ ra. Mỗi phần của chúng đều có chức năng riêng
biệt. Tỉ lệ tương đối (%) và tuyệt đối (g) giữa các thành phần tuỳ
thuộc vào loại gia cầm, mùa vụ, tuổi sinh sản. Lòng đỏ chiếm 32-

35%, lòng trắng 54-58%, vỏ cứng 11-14% so với khối lượng trứng.
Sự sai khác phụ thuộc vào loài gia cầm, tuổi đẻ, mùa vụ, chất lượng
thức ăn v.v…
Bảng 4.3. Tỷ lệ các thành phần cấu tạo trứng
Loại gia
cầm
Khối lƣợng
trứng (g)
Lòng trắng
(%)
Lòng đỏ
(%)
Vỏ cứng
(%)

Vịt
Ngỗng
58
80
200
55.8
52.6
52.5
31.9
35.4
35.1
12.3
12.0
12.4
Tỉ lệ thành phần cấu tạo trứng thay đổi tuỳ thuộc giống, tuổi, chế độ

dinh dưỡng…

Bảng 4.4: Tỉ lệ các thành phần cấu tạo của trứng gà, ngan
(theo Bạch Thị Thanh Dân, Nguyễn Quí Khiêm - 2002)
Chỉ tiêu
Trứng gà
Trứng ngan
Pháp
Trứng ngan
Nội
Lòng trắng( %)
58,62
53,76
55,39
Lòng đỏ (%)
31,04
35,01
32,60
Vỏ (%)
10,34
11,23
12,01

4.1.4.1.Vỏ trứng
- Màng nhầy (màng mỡ). Bên ngoài cùng của vỏ trứng phủ
một lớp màng nhầy (màng mỡ) được hình thành trong thời gian

121
trứng nằm ở âm đạo, trước khi đẻ ra. Màng nhầy (màng mỡ) có cấu
tạo từ protein (sợi muxin) có những hạt mỡ nhỏ li ti. Độ dày của

màng nhầy 0,05 - 0,01mm. Màng nhầy có tác dụng:+Giảm ma
sát khi đẻ; +Hạn chế sự bốc hơi nước của trứng; +Hạn chế sự xâm
nhập của vi khuẩn từ bên ngoài vào bên trong trứng. Thời gian bảo
quản trứng càng lâu độ bóng và tác dụng của màng mỡ càng giảm đi.
- Vỏ cứng (vỏ đá vôi): Trong tử cung của gia cầm có tuyến
vôi tiết ra một lớp dịch nhờn và trắng, dịch này tạo ra từ
cacbonatcanxi và các bó protein. Chất này nhanh chóng cứng lại tạo
thành lớp vỏ bao quanh trứng. Vỏ cứng được tạo thành bởi 93,5%
muối canxi (cacbonat canxi); 4,09% protein; 0,14% chất béo; 1,2%
nước; 0,5% oxit magiê; 0,25 photpho; 12% dioxit silic; 0,03% natri;
0,08% kali và các chất sắt, nhôm. Chức năng của nó là bảo vệ các
thành phần bên trong của trứng, đồng thời là nguồn cung cấp canxi,
phốt pho cho phôi để tạo xương. Thời gian tạo vỏ là một quá trình
kéo dài từ 9 - 12 giờ. Để hình thành xương phôi nhận 75% canxi từ
vỏ, còn lại 25% lấy từ lòng trắng. Trên bề mặt của vỏ có các lỗ khí
có kích thước rất nhỏ. Có khoảng 7000 - 7600 lỗ khí trên bề mặt vỏ
cứng). Đường kính lỗ khí, theo Jehn là 4-42 ; trung bình: 18-24 .
Độ dày vỏ cứng của từng loại gia cầm không giống nhau. Vỏ
trứng gà có độ dày từ 0,2 - 0,4mm. Trứng có vỏ dày chịu lực cao
hơn trứng có vỏ mỏng.
Bảng 4.5:Thành phần hóa học của vỏ trứng gia cầm (%)
(theo Rômanop, 1969)
Loài
gia
cầm
CaCO
3

MgCO
3


Ca
3
(PO
4
)
2

P
2
O
5

K
Chất
hữu


92,4-
97,9
1,3-1,8
0,8
0,4-
0,8
0,3
4,1-5,5
Vịt
94,4
0,5
0,8

0,8
-
4,2-4,3
Ngỗng
95,3
0,7
0,5
0,5
-
3,5

122
- Màng dưới vỏ trứng gồm 2 lớp dính sát vào nhau, được cấu
tạo từ sợi keratin đan chéo vào nhau, protein, chất keo dính chứa
nhiều lưu huỳnh. Màng vỏ ngoài có thể gắn thêm vôi. Sau khi trứng
đẻ ra được tách ra ở đầu lớn của trứng làm thành buồng khí. Một lớp
màng dính sát vào vỏ còn lớp bên trong dính sát vào lớp lòng trắng
ngoài. Độ dày của 2 lớp màng này khoảng 0,057 - 0,069mm. Màng
dưới vỏ bao bọc lấy lòng trắng. Buồng khí có chức năng cung cấp
oxy cho phôi trong giai đoạn đầu của sự hô hấp bằng phổi. Trong
quá trình bảo quản trứng, buồng khí rộng ra do sự bốc hơi nước của
trứng qua lỗ khí. Giá trị dinh dưỡng của trứng cũng giảm đi theo thời
gian bảo quản.
4.1.4.2.Lòng trắng trứng:
Bao bọc bên ngoài lòng đỏ, lòng trắng gồm nhiều lớp có độ
quánh khác nhau. Lớp ngoài cùng loãng, đến lớp giữa đặc và trong
cùng là một lớp loãng, lớp thứ 4 gọi là lớp lòng trắng đặc bên trong.
Tỉ lệ các lớp lòng trắng như sau:
+ Lòng trắng loãng phía ngoài 23,2%
+ Lòng trắng đặc giữa 57,3%

+ Lòng trắng loãng trong 10,8%
+ Lòng trắng đặc trong 7,2%
+ Dây chằng Albumin 1,5%
Lòng trắng đặc ngăn cản không cho lòng đỏ dính vào vỏ
trứng bằng cách hạn chế sự di động của lòng đỏ. Trong lòng trắng có
dây chằng albumin giữ cho lòng đỏ nằm giữa quả trứng và giữ cho
lòng đỏ không chuyển động.
Thành phần hoá học của lòng trắng chủ yếu là albimin hoà
tan trong nước và trong muối trung tính. Lòng trắng chứa 85-89% là
nước, protêin 11-12%, lipit 0,03-0,08%, đường 0,9-1,2%, khoáng
0,6-0,8%, còn lại các chất dinh dưỡng như vitamin B2, đường cung
cấp năng lượng cho nhu cầu phát triển của phôi. Nếu B2 bị thiếu,
phôi thai sẽ bị chết vào tuần thứ hai của giai đoạn ấp. Khi đun nóng

123
lòng trắng đóng vón lại. Lipit trong lòng trắng trứng rất ít. Trong
thành phần còn có mucin, mucoprotein thuộc vào nhóm
Glucoprotein có độ quánh cao. Lòng trắng có tạo môi trường hoạt
động của các enzyme, trong lòng trắng còn có chứa ion sắt…
Chức năng của lòng trắng là cung cấp năng lượng, cung cấp
nước, khoáng… cho phát triển phôi.
4.1.4.3.Lòng đỏ trứng
Lòng đỏ là một loại tế bào trứng đặc biệt có cấu tạo không
đồng nhất mà bao gồm nhiều vòng đồng tâm đậm nhạt khác nhau.
Lòng đỏ được bao bọc bằng màng lòng đỏ, mỏng có tính đàn hồi cao
nhờ đó mà lòng đỏ không lẫn vào lòng trắng mà luôn giữ được hình
tròn. Trứng để lâu tính đàn hồi mất dần, lúc đó màng bị rách và lòng
đỏ, lòng trắng tan dần vào nhau. Trên bề mặt lòng đỏ là đĩa phôi.
Lòng đỏ là phần giàu chất dinh dưỡng nhất. Thành phần hóa học của
lòng đỏ: protein 16-17%, đường 0,8-1,1%, lipit 33- 36%, khoáng

1,1-1,8%, nước 43-50% và các vitamin.
Trong các loại protein thì Photphoprotein chiếm nhiều nhất. Các
axít béo gồm Palmitic, Stearic, Oleic và các axit béo chưa no khác.
Các photphotit của Lơxetin và Cafalin. Trong lòng đỏ chứa sẳc tố
Lutein được cấu tạo từ sắc tố thực vật Xantophin, Zeacxactin do gia
cầm ăn vào từ thức ăn xanh, cà rốt…
Khoáng gồm K, Na, Mg, Ca, Sunfat, Photphat, Clorit, các
Vitamin nhưng thiếu vitamin C (bảng 4.9)

Bảng 4.6:Thành phần hoá học của trứng gia cầm (%)
Loại
trứng
H
2
O
Đạm
Mỡ
Đƣờng
Khoáng

73,6
12,8
11,8
1,0
0,8
Vịt
72,8
13,7
14,4
1,2

1,0
Ngỗng
70,6
14,0
13,0
1,2
1,2


124
Bảng 4.7. Thành phần hoá học của lòng trắng và lòng đỏ (%)

Trứng

Lòng trắng
Nƣớc
Protein
Lipid
Glucid
Khoáng

Vịt
Gà tây
85.6
87.0
86.7
12.77
11.1
11.5
0.25

0.03
0.03
0.7
1.07
0.97
0.67
0.5
0.8
Trứng

Lòng đỏ
Nƣớc
Protein
Lipid
Glucid
Khoáng

Vịt
Gà tây
50.9
45.8
48.3
16.06
16.8
17.4
31.7
36.2
32.9
0.29
0.29

0.20
1.02
1.20
1.20


Bảng 4.8: Thành phần hoá học chung của trứng gà, ngan
(theo Bạch Thị Thanh Dân, Nguyễn Quý Khiêm - 2002)
Chỉ tiêu
Trứng gà
Trứng ngan
Nước (%)
73,6
63,1 - 71,1
Protein (%)
12,8
12,5 - 13,0
Mỡ (%)
11,8
13,6 - 14,5
Khoáng (%)
1,09
1,1 - 1,5


Hình 4.1: Cấu tạo trứng gia cầm

125
1. Màng ngoài vỏ
6. Lòng trắng đặc lớp ngoài

12. Màng lòng đỏ
2. Vỏ cứng
7. Lòng trắng loãng lớp ngoài
13. Lớp sáng lòng
đỏ
3. Lỗ không khí
8. Dây chằng
14. Lớp tối lòng đỏ
4. Màng trong vỏ
9. Buồng khí
15. Tâm phôi
5. Màng lòng
trắng
10. Lòng trắng loãng lớp
trong
16. Đĩa phôi

11. Lòng trắng đặc lớp trong


Bảng 4.9: Hàm lƣợng Vitamin trong trứng gà tính trong 100g
vật chất khô
(Theo Bengart)
Vitamin
Toàn bộ
trứng
Lòng đỏ
Lòng trắng
A (mg)
0,2

0,03 - 1,2
-
D (mg)
200
100 - 400
-
E (mg)
1
3
-
K (mg)
0,02
-
-
B1 (mg)
0,15
0,3
-
B2 (mg)
0,4
-
-
B12 (mg)
0,05
18
0,1
Axit
pantotenic
(mg)
0,7

7,2
0,1

4.1.5. Các nhân tố ảnh hƣởng đến sức sản xuất trứng
4.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng
Vào đầu thế kỷ XX người ta đã nghiên cứu cơ sở di truyền
của sức đẻ trứng nhưng số gen ảnh hưởng đến tính trạng này đến nay
chưa xác định được. Thí nghiệm đầu tiên nâng cao sức đẻ trứng vào
đầu thế kỷ XX là của Gouell (Mỹ): 9 năm liền chọn lọc gà mái đẻ

126
trứng tốt nhất của giống gà Plymut vằn nhưng các thí nghiệm của
ông không có kết quả. Peeler tiến hành các thí nghiệm và suy ra giả
thiết sức đẻ trứng do hai cặp gen qui định (1 trong autoxom và 1 liên
kết với giới tính). Theo Gudeil và Makmallen thì có 2 cặp gen trong
autoxom quy định sức đẻ trứng. Hess chỉ ra sức đẻ trứng cao cả năm
là do nhiều gen trội còn sức đẻ trứng cao về mùa hè là do 1 gen lặn.
Theo Punmett (1930): Sức đẻ trứng cao do gen L2 liên kết giới tính.
.
Bằng những thí nghiệm lai, người ta đưa ra những yếu tố liên
kết với giới tính là yếu tố lông ánh bạc (S) và yếu tố lông vằn (B). Ở
gà có 2 yếu tố (S) và (B) thì sức đẻ trứng cao hơn các alen tương
ứng: s; l.
Theo Gudeil và Scheinberg, thí nghiệm trên giống gà rốt đỏ
(Red Rhode island) đưa ra 5 yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng trứng,
nhưng trật tự về mức độ ảnh hưởng có thể thay đổi, đó là:
1.Tuổi gà mái khi đẻ quả trứng đầu tiên hoặc tuổi thành thục
sinh dục:
2.Cường độ đẻ trứng (chu kỳ đẻ);
3.Mức độ biểu hiện của bản năng ấp trứng (tính ấp bóng)

4.Thời gian nghỉ đẻ, đặc biệt là nghỉ đẻ mùa đông
5.Thời gian kéo dài của sự đẻ trứng
Hays cho rằng những yếu tố về năng suất nêu trên là ứng với các gen
khác nhau.
Theo Knox, Jull, Quinn: các yếu tố 1,2,5 là quan trọng và
quyết định 75-79% năng suất trứng toàn năm. Theo Lerner và Taylor
(1943): 3 yếu tố đầu quyết định 55-91%.
Hays đưa ra khoảng chênh lệch so với sức đẻ trứng cao của
các yếu tố đó là: Thời gian kéo dài đẻ trứng: 55,2;Cường độ đẻ :
31.4; Bản năng ấp trứng:16.8; Nghỉ đẻ mùa đông : 24.2; Tuổi thành
thục: 6.9.

127
Lerner và Taylor (1943) xếp số 1 là thời gian kéo dài của sự
đẻ trứng.
Albada (1955-1956): thời gian kéo dài và cường độ đẻ trứng
là quan trọng, ngoài ra còn có các yếu tố khác ảnh hưởng gián tiếp:
+ Gen thể trọng: vì gà mái nặng cân bắt đầu đẻ muộn hơn nhẹ
cân; có thể do gen qui định thời gian thành thục sinh dục chậm cũng
như các gen thể trọng lớn.
+Gà mái đẻ trứng to thì số lượng trứng thường ít hơn đẻ
trứng nhỏ.
+Phụ thuộc và khả năng thành thục sinh dục của gia cầm mái.
1) Tuổi của gà mái khi đẻ quả trứng đầu tiên:
+Tuổi thành thục về tính (tuổi đẻ quả trứng đầu tiên) là thời gian
tính từ khi nở ra đến khi gia cầm đẻ quả trứng đầu tiên. Trong đàn
hoặc nhóm gia cầm thì tuổi thành thục được tính từ khi nở ra đến khi
sức đẻ trứng đạt 50% trong đàn. Thời gian thành thục về tính dài hay
ngắn ảnh hưởng đến sản lượng trứng cả năm. Kết quả nghiên cứu
cho thấy

Tuổi thành thục (ngày) Sản lượng trứng (quả/mái)
151-180 173,3
181-210 157,0
211-240 140,1

Các nhân tố ảnh hưởng đến thành thục gồm Giống: gà trứng có tuổi
thành thục sớm 5-6 tháng, gà kiêm dụng 6-7tháng, gà hướng thịt 7-
8tháng; Loài:Gà150-190, Vịt 200-250, Ngỗng 250-300…Mùa vụ ấp
nở ảnh hưởng đến tuổi thành thục, thường gà nở mùa đông -xuân
thành thục sớm hơn là hè-thu. Do gà lớn lên trong điều kiện có thời
gian chiếu sáng dài. Ví dụ thí nghiệm của Thomson ấp trứng gà
Lơgo suốt 1 năm cách nhau 14 ngày xác định gà con nở từ tháng XI
đến tháng I năm sau đẻ lúc 170 ngày tuổi; gà con nở từ tháng IV đến
tháng VI năm sau đẻ 210 ngày tuổi.

128
Tuổi của gà mái khi đẻ trứng đầu tiên là chỉ tiêu đánh giá sự
thành thục sinh dục. Tuổi gà đẻ trứng đầu tiên sớm nhưng phải có
thể trọng tốt để không đẻ ra trứng có trọng lượng nhỏ.
Theo nghiên cứu của Harel và Lamourex (1947) cũng như
Lerner và Cruden (1951) không có sự di truyền liên kết với giới tính
về tính trạng thành thục sinh dục.
Onishin (1954) cho rằng tính trạng này là tác động tổng hợp
của các gen liên kết giới tính với ưu thế lai, trong đó gen liên kết
giới tính kém quan trọng hơn.
Hệ số di truyền của tính trạng tuổi đẻ trứng đầu đã được công
bố trên bảng 4.10.

Bảng 4.10: Hệ số di truyền về tuổi đẻ trứng đầu tiên ở gà
Tác giả, năm công bố

Giá trị của hệ số di
truyền
Lerner và Taylor (1943)
Lerner (1945)
Harel và Lamoureux (1947)
Comstock Bostian và Diarstyne (1947)
Lerner và Cruden (1951)
Lerner, Cruden (1948)
Lerner, Wilson (1948)
Munro (1936)
Munro, Bird và Hopkins (1957)
Krueger (1952)
King và Henderson (1954)
Yamada (1956)
Peeler, Glazener và Blow (1955)
Henderson và King (1956)
Abplanalp (1956)
0,22 (22%)
0,16 và 0,33
0,27
0,12-0,45
0,20-0,30
0,33
0,31
0,15-0,20
0,31
0,34
0,25
0,20
0,27

0,48
0,21-0,40


129
2) Cường độ đẻ trứng:
+Chu kỳ đẻ trứng (chu kỳ đẻ): là số lượng trứng đẻ liên tục trong
một thời gian nhất định, sau một vài ngày nghỉ đẻ, cách quãng và lập
lại nhiều lần. Chu kỳ đẻ trứng được chia ra chu kỳ đều và không đều,
ổn định và không ổn định. Gia cầm đẻ trứng có chu kỳ dài, đều và
ổn định cho sản lượng trứng cao và ngược lại.
Ví dụ: XX-XX-XX chu kỳ đều, hai;
XX-XXX-XX—X XXX-X chu kỳ không đều.
Gà có chu kỳ từ từ 3 trở lên và ổn định là gà đẻ tốt.
Hays và Scheinberg tính bằng cách lấy số trứng đẻ ra trong
60 ngày đầu sau khi đẻ quả trứng đầu tiên hoặc thời gian từ khi đẻ
quả trứng đầu đến 1/III. Waren và Skott xác định sự phụ thuộc giữa
thời gian kéo dài của chu kỳ với độ dài ngày chiếu sáng. Hays chứng
minh rằng về mùa thu và mùa đông khoảng cách giữa các lần nghỉ
đẻ tăng lên dần làm giảm chu kỳ đẻ. Sau đó khối lượng trứng giảm
và đến tháng 4 thì chu kỳ đẻ là dài nhất. Byerly và Munro cho rằng
chu kỳ đẻ có thể kéo dài bằng cách kéo dài ngày chiếu sáng cho đến
14 giờ. Hays và Scheinberg khẳng định gà mái giống tốt phải đẻ mỗi
chu kỳ ít nhất 3 quả.
Hệ số di truyền về cường độ đẻ trứng (theo Lerner, Taylor) ở gà
Lơgo: r = +0.22.
3) Thời gian kéo dài đẻ trứng:
Thời gian kéo dài đẻ trứng là thời gian từ khi gà bắt đầu đẻ
cho đến khi nghỉ đẻ thay lông. Thời gian này càng dài thì sản lượng
trứng càng cao. Jull cho rằng năng suất trưng trong cả năm, sự thành

thục sinh dục, cường độ đẻ trứng và thời gian kéo dài của sự đẻ
trứng được qui định bởi cùng những gen như nhau.
4) Thời gian ngừng đẻ (nghỉ đẻ mùa đông).
Sự thay lông và nghỉ đẻ mùa đông. Sau 1 thời gian đẻ trứng
gia cầm sẽ thay lông và đồng thời với sự thay đổi này là sự nghỉ đẻ.
Nguyên nhân là do điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi và sự giảm

130
sút về thể chất sau 1 thời gian dài đẻ trứng. Hiện tượng nghỉ đẻ có
thể kéo dài một vài tuần đến 1-2 tháng. Đã qui định gia cầm nào
nghỉ đẻ 7 ngày liên tục vào mùa đông là gia cầm có tính nghỉ đẻ mùa
đông. Nghỉ đẻ càng dài sản lượng trứng càng thấp.
Thay lông ở gà 1 năm 1 lần, bắt đầu tháng 10-11, kéo dài 2-3
tuần là gà đẻ tốt. Bắt đầu sớm tháng 7-8 kéo dài 2-3 tháng là gà đẻ
kém. Sau một thời gian đẻ trứng gia cầm thường ngừng đẻ, thường
gọi là tính nghỉ đẻ mùa đông khi thời tiết bất lợi, độ dài ngày chiếu
sáng ngắn. Hiện tượng ngừng đẻ trứng thường gặp nhiều ở gà; có thể
kéo dài thời gian ngừng đẻ trong năm đầu đẻ trứng từ vài ngày đến
vài tuần và thậm chí 1-2 tháng; thường ở các tháng mùa đông có
điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi gia cầm ngừng đẻ nhiều hơn.
Hays xác định thời gian nghỉ đẻ mùa đông ở gà Rốt là 4 ngày.
Lerner, Taylor xác định thời gian nghỉ đẻ mùa đông ở gà Rốt là 7
ngày. Các nghiên cứu đã xác định hệ số di truyền của tính trạng này
là không đáng kể: ở gà Lơgo 10% (Lerner), gà Rốt 6% (Hays).
5) Bản năng ấp trứng (tính ấp bóng).
Ấp trứng là đặc tính sinh vật của gia cầm để duy trì nòi giống.
Thời gian ấp bóng dài hay ngắn ảnh hưởng đến sản lượng trứng.
Hiện nay qua con đường chọn giống đã loại trừ và hạn chế tính ấp
bóng của gà.Vịt, gà cao sản không còn bản năng ấp bóng. Ảnh
hưởng đến tính ấp bóng gồm giống, loài, hướng sản xuất, tuổi, mùa

vụ… Nguyên nhân của sự ấp bóng được xác định là có sự tham gia
điều tiết của Hormon prolactin. Hàm lượng prolactin cao trong máu
ở gà có tính ấp bóng cao.
Bản năng ấp trứng có sự khác nhau lớn ở các dòng và các
giống gà (Lerner, Cruden). Tập tính của gà khi ấp, thời gian kéo dài
và tần số khi ấp rất khác nhau, làm phức tạp cho việc chọn giống
theo hướng loại bỏ bản năng ấp trứng. Bản năng ấp có biểu hiện ở
năm 1,2,3… Năm đầu biểu hiện 1-13 lần, các năm sau còn nhiều
hơn

131
Bản năng ấp trứng càng mạnh thì sản lượng trứng càng thấp
(bảng 4.11).
Bảng 4.11: Sản lƣợng trứng giữa gà mái ấp và không ấp
(quả/mái)

không
ấp

có ấp
Chênh
lệch
Tác giả công bố (giống gà)
181,3
184,9
212,2
205,0
194,0
272,0
271,4

164,9
177,5
203,4
180,0
153,0
269,0
269,1
- 16
- 7,4
- 8,8
- 25,0
- 41,0
- 3,0
- 2,3
Hays, Scheinbeg (Rốt)
Hays (dòng gà Lơgo có ấp)
Hays (dòng gà Lơgo không ấp)
Jull (Rốt)
Jull (Lơgo trắng)
Hays (Rốt)
Lanson (Rốt)

Có nhiều yếu tố chi phối có ảnh hưởng lên bản năng ấp trứng
nhưng số lượng chưa xác định và tính chất của các yếu tố này chưa
rõ. Pennett và Bailey cũng như Grudeit cho rằng có sự tham gia của
1 số gen trong autoxan. Theo Grueit đó là những gen bổ trợ. Robest
và Card khi cho lai trống Lơgo trắng với mái Cornic đen thì
thấy:88% có ấp ở gà con của trống Cornic, 37% có ấp ở gà con của
trống Lơgo.
Bản năng ấp trứng có sự liên quan của các gen liên kết giới

tính. Waren (1942), Karifman (1948), Meuller (1952) thu được kết
quả tương tự. Nên ta kết luận được bản năng ấp trứng ngoài một gen
trong autoxom còn có (ít nhất1gen) gen liên kết giới tính. Theo
Sacki (1957) lai gà Nhật Nagôi (có ấp) với Lơgo trắng (không ấp) thì
đúng là có sự liên kết giới tính.
Bằng con đường chọn lọc chặt chẽ làm giảm khả năng ấp trứng.
Crudeit trong 5 năm chon lọc trong đàn gà Rhode island đã giảm
được từ 91% xuống 19%; giảm số lần ấp từ 5,4 lần xuống 1,9 lần.

132
Hays, Scheinberg giảm tỷ lệ ấp trứng trong đàn xuống còn 2,2%.
Mc. Cartney (1956) cho là kết quả đạt được bằng chọn lọc cá thể.
Hệ số di truyền về năng suất trứng trong năm đẻ đầu đã được
nhiều tác giả công bố (bảng 4.12). Số liệu này sai khác không nhiều
so với hệ số di truyền tuổi đẻ trứng đầu tiên (bảng 4.10).
Bảng 4.17: Hệ số di truyền về năng suất trứng trong năm
đẻ đầu ở gà
Tác giả, năm công bố
Hệ số di truyền
sức đẻ trứng (%)
Theo Comstock, Bostian, Dearstyne (1947)
Munro (1936)
Munro, Bird và Hopkins (1957)
Lerner, Taylor (1943)
Shoffner, Sloan (1945)
Lerner, Cruden (1948)
Lerner, Wilson (1948)
Krueger và ctv (1952)
King, Henderson (1954)
Hill, Diekerson, Kempster (1954)

Morris (1956)
Jerome, Henderson, King (1956)
Oliver, Bohr, Anderson (1957)
Abplanalp (1956)
King, Henderson (1954)
16-47
20-15
31
23
34
33
31
25
31
24
33
12
15
21-24
20

Hệ số di truyền sức đẻ trứng ở các mốc thời gian khác nhau
cũng khác nhau (sức đẻ trứng các tháng khác nhau, sức đẻ trứng
trong mùa đông, sức đẻ trứng trong cả năm). Lerner, Taylor (1948)
nghiên cứu ở gà Lơgo toàn năm: 33%. Morris (1956) trên Lơgo 1
phần năm hoặc cả năm: 33%. Hogsett và Nordskog (1956) giai đoạn
đẻ mùa đông: 30%.Ảnh hưởng rõ rệt của thời gian ấp lên HSDT sức

133
đẻ trứng mùa đông đã được xác định bởi Hogsett và Nordskog

(1956) là 10%; Abplanalp (1956-1957) là 23-31%.
Jerome, Henderson, King (1956) thấy sự tăng dần của HSDT sức đẻ
trứng trong tháng đầu, tháng đầu-tháng thứ 2, tháng đầu-T2-T3,
tháng đầu- T2-T3-T4. Vì giữa năng suất trong thời gian (trước 1/I)
và năng suất chung cả năm đầu đẻ trứng có mối tương quan di
truyền cao. Do đó mà ngày nay chọn gà theo năng suất cao của các
tháng đẻ đầu tiên để làm giống. Điều đó cho phép sử dụng ngay
những gà mái đẻ còn non để làm giống, nhờ vậy sẽ rút ngắn được
khoảng cách giữa các thế hệ trong quá trình chọn giống.
+ Thời gian sử dụng gia cầm đẻ trứng thích hợp
Dựa vào sự biến động của sản lượng trứng để quyết định thời
gian sử dụng gia cầm đẻ trứng thích hợp. Lấy sản lượng trứng năng
đầu là 100%, sản lượng trứng biến động qua các năm đẻ ở gia cầm
(bảng 4.13).
Bảng 4.13: Sản lƣợng trứng qua các năm đẻ (%)
Năm

Vịt
Ngỗng
Gà tây
1
100
100
100
100
2
85
109
125
106

3
72
82
165
94
4
62
73
150
76
5
55
54
75
34

Gà thương phẩm thường loại thải sau một năm đẻ trứng, gà giống sử
dụng không quá 2 năm; Vịt, Gà tây: 3năm; Ngỗng: 4năm.
+ Giữa sản lượng trứng và khối lượng trứng có mối tương quan
nghịch, vì vậy cần phối hợp tốt trong chọn lọc, lai tạo giữa hai tính
trạng này. Nghiên cứu trên gà lai CZ 80 và các dòng bố mẹ của nó
(Nguyễn Đức Hưng, 1989), cho thấy hệ số tương quan giữa sản
lượng trứng với khối lượng trứng lúc 52 tuần tuổi R = - 0,07đến -

134
0,34; giữa khối lượng gà với khối lượng trứng có tương quan dương
(+) ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào tuổi gà.

Khối lượng (KL) gà
KL. trứng lúc 32 tuần đẻ

KL.trứng lúc 52 tuần đẻ
4 tuần tuổi
8 ,,
20 ,,
Khi vào đẻ
52 tuần đẻ
0,33 - 0,57
0,15-0,40
0,10-0,20
0,09-0,61
0,16-0,39
0,10-0,42
0,20-0,44
0,10-0,11
0,20-0,46
0,11-0,59

Tuổi đẻ với khối lượng trứng có tương quan dương (+) lúc 32 tuần
đẻ là 0,08-0,20; lúc 52 tuần đẻ là 0,09-0,37.

Khối lượng (KL) trứng có tương quan với tỉ lệ các thành phần
cấu tạo trứng.
Tương quan giữa tính
trạng
32 tuần đẻ
52 tuần đẻ
KL. trứng với KL.vỏ
trứng
+ 0,49-0,62
+ 0,43-0,62

KL. trứng với Độ dày vỏ
+ 0,42-0,61
+ 0,15-0,32
KL. trứng với chỉ số hình
dạng
- 0,12-0,26
- 0,20-0,38

4.2. Sức sản xuất thịt
Sức sản xuất thịt là một tính trạng kinh tế quan trọng trong
chăn nuôi gia cầm hướng thịt. Đặc biệt là gà tây, ngỗng, vịt, gà
chuyên dụng hướng thịt.
4.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất thịt ở gia cầm
Sức sản xuất thịt ở gia cầm được đánh giá bằng các chỉ tiêu:
- Khối lượng cơ thể (khối lượng sống);
- Khối lượng khi giết thịt (khối lượng giết thịt);

135
- Tốc độ sinh trưởng; Tốc độ mọc lông;
- Thời gian nuôi để đạt khối lượng tiêu chuẩn;
- Chi phí thức ăn để sản xuất 1 kg tăng trọng;
- Chất lượng thịt khi mổ giết: phần thịt ăn được, năng suất
thịt, phần bỏ đi Thành phần và hàm lượng các axít amin trong thịt.
Trong sản xuất thịt gia cầm theo phương pháp công nghiệp
người ta đưa ra các chỉ tiêu cụ thể cho từng loại gia cầm, từng giống,
dòng riêng biệt và trong những điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cụ
thể. Ví dụ gà thịt broiler, thời gian nuôi 56 ngày; khối lượng giết thịt
2,6-2,8kg; chi phí thức ăn /1kg thịt dưới 2,2kg; giảm lượng mỡ tích
luỹ trong bụng và mỡ dưới da.


Hình 4.2: Phƣơng pháp xác định chiều dài lƣờn (dài xƣơng lƣỡi hái)

Chiều dài xương lườn (xương lưỡi hái), cơ lườn và độ lớn
góc ngực là những chỉ tiêu được quan tâm trong chăn nuôi gia cầm
hướng thịt. Phương pháp xác định thông qua chiều đo dài xương
lưỡi hái (bằng thước kẹp) hoặc đo góc ngực (Hình 4.2).
Gia cầm giết mổ, phân loại thành các loại thịt thuận tiên cho
người tiêu dùng. Có thể là thịt đông lạnh nguyên con hoặc thịt được

136
pha lọc thành thịt đùi, thịt lườn, cổ cánh, dạ day, tim, gan… và được
bao gói riêng biệt (Hình 4.3).

Hìmh 4.3: Thịt gà đã pha lọc

Ở Việt nam, gà chuyên dụng thịt Plymouth rock nhập từ
Cuba dòng TD3, TD8, TD9 và gà Hybro dòng V1, V2, V3, nuôi
công nghiệp đạt các chỉ tiêu kỹ thuật như bảng 4.14 và bảng 4.15.
Bảng 4.14: Khối lƣợng gà (g/con) lúc 56 ngày tuổi giống
Plymouth rock (trung bình qua 10 đời)
Dòng gà
Tuổi
(ngày)
Trống
Mái
Chi phí
thức
ăn/1kg
TĐ3
1

39,85
39,85

56
1343,0
1139,0
2,35
TĐ8
1
39,30
39,30

56
1396,40
1186,30
2,32
TĐ9
1
40,6
40,6

56
1577,2
1327,7
2,18

137
Bảng 4. 15: Khối lƣợng gà (g/con) lúc 42 ngày tuổi giống Hybro
(HV85)
Dòng gà

Trống
Mái
Chi phí thức
ăn/1kg
V1
1057
956
2,18
V2
963
880
2,16
V5
935
857
2,15

4.2.2. Tốc độ sinh trưởng.
Tốc độ sinh trưởng ở gia cầm có ý nghĩa quyết định đến sức
sản xuất thịt. Tốc độ sinh trưởng được đánh giá thông qua độ sinh
trưởng tuyệt đối, độ sinh trưởng tương đối hoặc số lần tăng lên về
thể trọng trong khoảng thời gian nhất định (bảng 4.16 và 4.17).

Bảng 4.16: Độ sinh trƣởng tƣơng đối của gia cầm(%)
Tháng

Vịt
Gà tây
Ngỗng
1

150
180
150
170
2
85
90
100
45
3
50
25
70
35
4
30
4
40
10
5
20
4
30
7

Bảng 4.17: Khối lƣợng tăng so với 1 ngày tuổi ở gia cầm
Loài gia cầm
Thời gian (ngày) để tăng khối lƣợng gấp



Vịt
Ngỗng
Gà Tây
10 lần
20 lần
30 lần
40 lần
40
70
90
-
20
30
40
60
20
30
50
80
30
60
70
8-



×