Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

CÔNG XÃ PA-RI (PHÁP)_2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.8 KB, 10 trang )

CÔNG XÃ PA-RI (PHÁP)
Vải đỏ cho lấp bức tượng oai nghiêm của vua Hăngri IV và trùm lên một
cái bàn dài, nơi dùng làm lễ đài, các Uỷ viên Công xá sẽ ra mắt quốc dân
trong bộ đồng phục Vệ quốc quân. Mười vạn Vệ quốc quân, động ngữ
chỉnh tề, lưỡi gương tuất trần, biểu dương lực lượng trức lễ đài. Nhân
đãn kéo đến quản trường từ sáng tinh mơ, chật kín hè phố. Sau khi Uỷ
ban trung ương Vệ quốc quân công bố danh sách các uỷ viên Công xã và
trao quyền cho Công xã, các uỷ viên công xá đều quàng băng đỏ ra mắt
quốc dân. Tiếng hoan hô vang dậy: “công xá muôn năm!”. Tiếng đại bác
chào mừng rung chuyển đất trời. Các đoàn uqqn nhạc cử Quốc ca (Cài
Macxâye). Hàng trăm nghìn người hát theo như sấm động.

Các uỷ viên Công xã anh hùng

Các uỷ viên Công xã mới được bầu lên, theo một nhà văn thời bấy giờ
viết, là “những nhân vật vô cùng trung thực, chân thành, thông minh,
tận tuỵ, trong sạch và “Cuồng tín ” hiểu theo nghia tốt của nghĩa này.
Phusăng (Pustave Flouten, 1838-1871), con tai một nhà khoa học nổi
tiếng, đã dấn thân vào tronag bão táp cách mạng từ ngày còn trẻ. Ông
nhiều lần bị chính quyền Đế chế II kết án, lưu đầy và phải sống lưu vong
ở khắp châu Âu, tham gia khởi nghĩa của nhân dân ở đảo Cretơ. Ông
viết báo, viết sách cách mạng, mấy lần bị mật trở về Pháp, dưới bộ áo
người thợ. Ông bị chính phủ vệ quốc bắt giam và được nhân dân giải
phóng ngày 18-3-1971. Ông tham gia Uỷ ban Công xã và chiến đấu rất
dũng cảm. Ông đã hi sinh oanh liệt ở (Satu) ngày 3-4-1871.

Václanh (Varlin, 1839 - 1871), thợ đóng sách, xuất thân tỏng một gia
đình nông dân từ bỏ chủ nghĩa Pruđông, tích vực đấu tranh chống lại
những tư tưởng sai lầm của Pruđông và trở thành một trong những
người lãnh đạo xuất sắc của Chi nhánh Quốc tế I ở Pháp. Trong thời đế
chế II, ông lãnh đạo nhiều cuộc bãi công, bị chính quyền đế chế truy nã


hai lần, phải trốn sang Bỉ. Sau ngày 4-9-1870 trở về Pháp, ông kiên
quyết vạch mặt Chính phủ vệ quốc. Từ ngày 18-3-14871, Vaclanh tham
gia vệ quốc quân, lập nhiều chiến công. Với tài năng quân sự xuất
chúng, Vaclanh là một vị tướng chỉ huy gang thép. Những ngày tháng 5-
1871, ở đâu xung yếu là ở đấy có mặt ông. Ông trực tiếp chỉ huy trên
nhiều chiến luỹ. Ngày 27-5 một ngày trước khi Công xã bị quân thù tiêu
diệt, người ta thấy Vaclanh – người thay Đơlêcluydơ, chỉ huy quân đội
vệ quốc – trên chiến luỹ Ramponno, nét mặt hốc hác, rét run trong
chiếc áo varoi đãm máu, đang khích lệ các chiến sĩ vệ quốc. Ngày 28-5
Vaclanh bị bắt ở gần quảng trường Rosơpho, trong một quán cà phê.
Bọn Vecxai vừa kéo lê ông, vừa đánh đập tàn nhẫn cho đến chết. Trước
khi hi sinh, ông hô to nhiều lần : “Cộng hoà muôn năm! Công xã muôn
năm!” ngày ấy cũng là ngày chiến luỹ cuối cùng của Công xã tan vỡ.

ĐờLêcluydơ (Delescuze) (1809 - 1871) là một nhà báo dạn dày kinh
nghiệm chiến đấu, cả cuộc đời hi sinh cho cách mạng, là một trong
những hình ảnh xúc động nhất của người anh hùng Công xã. Ông thuộc
thế hệ những nhà cách mạng lão thành, tượng trưng cho tình thần cách
mạng 1848. Ông bị kết án tù mấy lần, một lần bị đầy sang đảo Cayen
(cayenne) ; được tự do, ông lại tiếp tục chiến đấu không mệt mỏi. Trong
thời kì cách mạng Công xã, ông đã 62 tuổi. Ông được Công xã giao
nhiều nhiệm vụ quan tọng ; cuối cùng, ông nhận trách nhiệm chỉ huy
quân đội Vệ quốc vào tháng 5-1871. Ông hi sinh ngày 25-5-1871 trên
chiến luỹ phố Vonte dưới bầu trời Pari rực lửa súng đạn. Lúc ấy
ĐờLêcluydơ, lưng đã còng xuống vì tuổi già đau khổ, chống gậy leo lên
chiến luỹ, thất vọng vafb uồn bã. Súng của quân thù tới tấp bắn vào ông
và ông ngã xuống. Nhà thờ, nhạc sĩ của Công xã ƠgienPôchie ước mong
thế hệ mai sau sẽ xây một Đài kỉ niệm Công xã Pari, trong đó bức tượng
trung tâm là ĐờLêcluydơ, hình ảnh kiên cường của Công xã:


Trên đóng đá thô sơ phủ đầy hoa lá
ĐờLêcluydơ đi đến cái chết, hiên ngang.

Đômbrôxki (Dombrowski, 1836 - 1871), một chiến sĩ người Ba Lan, một
nhà quân sự tài ba, người đã chiến đấu không mệt mỏi cho chính nghĩa,
cho cách mạng trên nhiều chiến trường châu Âu. Xuất thân trong một
gia đình quý tộc nghèo Ba Lan, Đômbrôxki đã sớm dời bỏ gia đình để
tham gia cách mạng. ở Vacxava, ông liên lạc với các quan tiến bộ Ba
Lan, thảo một kế hoạch khởi nghĩa chống đế quốc Nga đang thống trị
nước ông. Việc bại lộ ông bị bắt và bị xử đày tại Xibia 15 năm. Nhờ bạn
bè giúp sức, ông vượt ngục, trốn sang Pháp; đó là năm 1865. Đến Pari,
ông sống bằng nghề vẽ và tiếp tục hoạt động cách mạng. Từ ngày 18-3,
ông tham gia quân đội về quốc và giữ nhiều trọng trách trong việc tổ
chức và huấn luyện quân đội Về quốc. Đầu tháng 4 ông được giao chỉ
huy cuộc phòng ngự ở phía tây, tỏ ra có một tài năng quân sự phi
thường và trung thành tuyệt đối với Công xã. Không chỉ phòng ngự,
Đômbrôxki còn chuyển sang tấn công đánh cho địch những đòn rất
nặng nề. Ngày 24-4 ông đã đánh chiếm được khu vực Nơii (Neuilly),
nhưng đến ngày 17-5, lại phải rút lui, vì không được tiếp viện. Đầu
tháng 5, ông giữ nhiệm vụ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang của Công
xã. Bọn gián điệp chui vào được cả Bộ tổng tham mưu, tìm cách mua
chuộc Đômbrôxki nhưng vô ích. Khi quân Vecxai và Pari, ông chiến đấu
rất anh dũng, đánh bại quân thù trên nhiều mặt trện Ngày 23-5,
Đômbrôxki bị tử tương trên chiến luỹ Mira (Myrrha) và trút hơi thở cuối
cùng tại một bệnh viện. Nhà báo Công xã Vecmoren đã ca ngợi ông là
“một bó đuốc và anh hùng của nền cộng hoà thế giới”.

Phranken (Frankel) vốn là thợ kim oàn người Hungari, sang Phá trong
thập niên 60, rất thân với Vaclanh. Cũng như Vaclanh, Phranken là uỷ
viên chấp hành của chi bộ Pari của Quốc tế I và gần gũi với Mác.

Phranken được khu XII bầu vào Công xã và giữ chức vụ Bổ trưởng Bộ
Lao động của Công xã, năm 27 tuổi. Ngày 30-3, Phranken viết thư thỉnh
thị Mác về vấn đề “triệt để cải tạo quân hệ xã hội”. Từ đó tới ngày cuối
cùng của Công xã, Mác liên tục thư từ cho Phranken và Vaclanh qua
Êlidavêta Đimitriêva, một phụ nữ cách mạng Nga lưu vong. chính
Êlidavêta Đimitriêva người tổ chức lao động cho phụ nữ Pari thời kì
Công xã và chiến đấu trên chiến luỹ, đã cứu được Phranken bị thương
thoát khỏi tay bọn khát máu Vecxai.

Giuốcđơ (Jourde), Bộ trưởng Tài chính, là một tấm gương liêm khiết
hiếm có. Tuy nắm trong tay một kho tiền bạc của Công xã nhưng ông
vẫn ăn cơm tháng ở một quán cơm xoàng xĩnh ở phố Luých xăm bua.
Vợ ông vẫn hàng ngày đi giặt giũ ở máy nước công cộng và con ông học
ở một trường học bình dân, không phải đóng tiền học.

CuốcBê (Gustave Courbet, 1819 - 1877) là một hoạ sĩ tiến bộ, có quan
hệ bạn bè với nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa Pruđông và nhà tư tưởng
này từng có mặt trong tranh của ông. Ông là tác giả của nhiều bức tranh
nổi tiếng trên thế giới Người ngậm tẩu thuốc lá, Thợ đập đá, Đám tang
ở Oócnăng. Ông là người làm rạng rỡ hội hoạ Pháp thế kỉ XIX.

Năm 1870, ông đã dũng cảm từ chối Huân chương Bắc đẩu bội tinh của
Napôlêông III, vì không muốn làm ô uế “30 năm đấu tranh, lao động và
nguyền rủa” của mình. Trong thời kì Công xã Pari, ông được bầu làm
Chủ tịch Hội các nghệ sĩ, làm việc tận tuỵ cho cách mạng. Ông đã để lại
trên 50 phác thảo về Công xã Pari. Ông hết sức ca ngợi Công xã, ông
viết : “ Trong Công xã tôi tìm thấy lí tưởng của việc xây dựng một quốc
gia nhằm tiêu diệt đặc uyền, chiến tranh và dốt nát”. Sau thất bại của
Công xã, ông bị kết án 6 tháng từ và bồi thương trên 320.000 phorăng,
vì bị buộc tội tham gia phá đổ cột Văng đôm. Năm 1873, ông trốn sang

Thuỵ sĩ, rồi sang Bỉ và mất năm 1877. Hiện nay ở thành phố quê hương
Oócnăng, có một viện bảo tàng trưng bày những tác phẩm của Cuốcbê.
Ăng đrê Gin (André Gill) là họa sĩ vẽ tranh châm biếm nổi tiếng đã mang
hết tài năng và nghị lực để phục vụ Công xã. Gin được giao nhiệm vụ
quản lí Viện bảo tàng Luých xăm bua. Tự tay ông lau bụi cho từng bức
tranh, từng bức tượng, tự tay ông đem tranh và tượng từ những kho
đầy bóng tối ra tưng bầy trong những phòng lộng lẫy, làm sống lại biết
bao tài năng, để quần chúng lao động được thưởng thức nghệ thuật
của loài người. Gin say mê công việc, mỗi ngày làm việc không dưới 12
tiếng đồng hồ và ông chỉ dời vị trí của mình, khi quân Vacxai tiến đến
góc phố Viện bảo tàng Luých xăm bua.


Cuộc chiến giữa công xã Pari và chính phủ Vecxai – “tuần lễ máu”

Sau cuộc cách mạng 18-3, Công xã Pari đã phạm một khuyết điểm
nghiêm tọng là không tấn công Vecxai ngay lúc quân đội Chính phủ tan
tác. Trong khi nhân dân và Vệ quốc quân Pari maire lo việc bầu cử Công
xã và xây dựng cuộc sống mới, thì Chie tập hợp củng cố quân đội ở
Vecxai. Quân đội Chính phủ, sau những thất bại nhục nhã trước quân
phổ và trước nước Pari, trở thành một đội quân ô hợp, không có kỉ luật
và mất tinh thần chiến đấu. Sau khi củng cố lực lượng, ngày 2-4, quân
đội Vecxai bắt đầu tấn công Pari. Những tên bại tướng ở Xơ đăng như
Mác Mahông nửa năm trước đã đầu hàng quân Đức một cách nhục
nhac, nhưng nay khi chống lại đồng bào mình, lại tỏ ra rất hung hăng
tàn nhẫn, các chiến sĩ Công xã chiến đấu rất anh dũng, nhưng do kém
chuẩn bị, kế hoạch chiến đấu thiếu sót và chỉ huy non kém, phải rút dần
khỏi những vị trí then chốt ở phía tây và phía nam. Vào thời điểm chiến
sự đang diễn ra quyết liệt, Chie và đồng bọn đã kí kết với Bixmac một
hoà ước nhục nhã tại Phranphuóc (10-5-1871) van xin Bixmac thả

100.000 tù binh Pháp ở biên giới trở về Vecxai với đầy đủ súng ống, để
tăng cường lực lượng cho Chie.

Ngày 20-5, quân đội Vecxai bắt đầu tổng công kích, 3 giờ chiều ngày
chủ nhật 21-5 bọn gián điệp trong khu tư sản ở phía tây Pari đã mở cửa
thành Bình Minh (Point du Jour) ở khu Ôtơi, nơi không ai canh giữ, để
quân Vecxai xông vào nội thành. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trên các
đường phố, kéo dài trong một tuần lễ (từ 21 đến 28-5), lịch sử goi là
“Tuần lễ máu” Quân Vecxai tiến dần vào trung tâm thành phố dọc theo
bờ bắc sông Xen. Các chiến sĩ Công xã chặn đánh quân thù từng bước,
bảo vệ dũng cảm từng căn nhà, khu phố. Chiến sự lan dần đến khu công
nhân ở phía đông. Trong những khu công nhân, không chỉ thanh niên
nam giới, mà cả người già, phụ nữ, trẻ em đều lên chiến luỹ. Thế giới
phải ngạc nhiên và khâm phục về những tấm gương của phụ nữ và
thiếu nhi Pari. Có những chiến luỹ hoàn toàn do phụ nữ xây dựng và
chống giữ như ở Quảng trường trắng. hàng vạn nữ công nhân đã làm
công tác cứu thương, đảm nhiệm những trạm y tế lưu động, cứu sống
biết bao thương binh, hình ảnh của tiểu đoàn nữ chiến sĩ chiến đấu
dưới sự chỉ huy của cô giáo Luidơ Misen mãi mãi tiêu biểu cho tinh thần
bất khuất của phụ nữ lao động Pháp. Mười bảy thiếu niên xây dựng lên
một chiến luỹ và tự bảo vệ. Tiêbô (Thiebaud), mười bốn tuổi, vừa chở
một thùng rượu đến chiến luỹ xanh Uen cho Vệ quốc quân, thì quân
Vecxai ập đến. Em đã chọc thủng thùng rượu, giằng lấy khẩu súng của
một chiến sĩ vừa ngã xuống, bắn chết một sĩ quan Vecxai, rồi trốn thoát.
Băngđơrítte (banderitte) bắn nhau với quân thù suốt mười ngày đêm,
cho đến khi bị thương không chiến đấu được nữa. Nhiều thiếu niên anh
hùng vô danh khác đã hi sinh bên chiến luỹ.

Ngày 27-5, quân Vecxai chiếm khu công nhân Benvin. Gần hai trăm
chiến sĩ Công xã rút vào nghĩa địa Cha Lase chiến đấu trên từng nấm mồ

. Đến chiều, những người sống sót bị dồn đến trước tường nghĩa địa và
bị bawnscheets hết. Bức tường này, sau trở thành nơi hằng năm nhân
dân Pháp và nhân dân thế giới tới thăm viếng, tưởng nhớ, ngưỡng mộ
sự hi sinh cao cả của những chiến sĩ Công xã.

10 giờ sáng chủ nhật 28-5, trung tâm kháng chiến cuối cùng của Công
xã ở phố Răngponnô bị tấn công. Một nhóm chiến sĩ còn lại trên chiến
luỹ tiếp tục chiến đấu chống lại quân thì đến 2 giờ chiều.

Cuộc tàn sát trong “Tuần lễ máu” và những ngày sau đó, do tên " quỷ
lùn" Chie chỉ huy, kinh khủng không bút nào tả xiết. Cả Pari biến thành
một lò sát sinh khổng lồ, ước tính có đến 30.000 chiến sĩ bị giết, trên
40.000 người bị tù hoặc đầy ra các thuộc địa xa xôi và chết mòn ở đấy.
Trong số người bị bắt có hơn 1.000 phụ nữ và 650 trẻ em.

Mặc dầu Công xã chỉ tồn tại được 72 ngày và bị thất bại nhưng Công xã
mãi là tấm gương sáng chói của giai cấp công nhân Pari dám “tấn công
lên trời” và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho cách mạng vô sản
trên thế giới.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×