Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bệnh vẩy nến :Sinh bệnh học và thuốc điều trị doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.23 KB, 5 trang )

Bệnh vẩy nến :Sinh bệnh
học và thuốc điều trị

I. Đại cương
Vẩy nến là một bệnh da mạn tính do viêm và chưa thể chữa khỏi hoàn
toàn. Bệnh rất thường gặp, chiếm 2-3% dân số thế giới. Hiện nay, có rất
nhiều phương pháp điều trị nhưng bệnh thường kháng trị hoặc dễ tái phát
sau khi ngưng sử dụng thuôc. Các thuốc điều trị vẩy nến hệ thống trước
đây như methotrexate, cyclosporin và retinoids có nhiều độc tính và tác
dụng phụ nên người thầy thuốc cần phải theo dõi sát những bệnh nhân sử
dụng các thuốc này. Nguyên nhân của vẩy nến hiện nay được chứng minh
có liên quan đến đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào và dấu ấn của
cytokine. Vì vậy, các thuốc điều chỉnh miễn dịch chọn lọc với độc tính ít
hơn được xem như một thế hệ trị liệu mới trong việc kiểm soát và chữa
lành vẩy nến.
II. Nhắc lại các yếu tố liên quan đến vẩy nến
Yếu tố di truyền:
Có hai kiểu bệnh rõ ràng trong vẩy nến: kiểu khởi phát sớm và kiểu khởi
phát muộn. Vẩy nến khởi phát sớm thường gặp ở độ tuổi 16-22. Loại này
có diễn tiến bất ổn và khuynh hướng lan rộng toàn thân. Loại này có liên
quan mạnh đến tính di truyền. Trái lại, vẩy nến khởi phát muộn thường
gặp ở độ tuổi 57-60. Loại này thường nhẹ và khu trú. Loại này thường ít
có liên quan mạnh với tính di truyền như loại khởi phát sớm.
Yếu tố ngoại sinh:
Nhiều yếu tố môi trường cũng góp phần trong sinh bệnh học của vẩy nến.
Các yếu tố ngoại sinh như chấn thương, stress, bỏng nắng, phẫu thuật,
thuốc và nhiễm trùng làm khởi phát bệnh ở những người có sẵn yếu tố di
truyền tiềm tàng. Các yếu tố này còn làm bệnh nặng thêm hoặc tái phát
nặng nề.
III. Sinh bệnh học miễn dịch của vẩy nến
Vẩy nến được xem như một tình trạng tăng sinh quá mức của các


keratinocyte ở thượng bì dưới sự kích thích của các lymphocyte ở bì. Cơ
chế chính xác và dây chuyền tương tác giữa các keratinocyte và các tế
bào miễn dịch vẫn chưa được hiểu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, nhiều
bằng chứng cho thấy các tế bào T hoạt hóa là những chất điều chỉnh miễn
dịch chủ yếu trong sinh bệnh học của vẩy nến.
Thoạt đầu, các tế bào T hoạt hóa xâm nhập vào lớp bì ở vùng da tổn
thương nhờ các phân tử kết dính tế bào và cytokine tiền viêm interleukin-
8 (IL-8). Đa số tế bào T ở thượng bì là loại CD4+helper. Các tế bào T bị
kích hoạt bởi các tế bào nhận diện kháng nguyên. Quá trình này sản xuất
ra nhiều loại cytokine. Các tế bào T sản xuất IL-2 và interferon-y (INE-y)
được gọi là tế bào Th1 và miễn dịch trung gian tế bào. Ngược lại, các tế
bào T sản xuất IL-4, IL-5 và IL-10 được gọi là các thế bào Th2 và góp
phần trong miễn dịch cơ thể. Các cytokime Th1 là những chất tiền viêm,
còn các cytokine Th2 là những chất chống viêm. Trong vẩy nến, loại Th1
chiếm ưu thế còn Th2 ít hơn.
IV. Mục tiêu điều trị hiện nay
Mục tiêu điều trị hiện nay
Mục tiêu điều trị bệnh vẩy nến hiện nay chủ yếu dựa vào những điểm
chính sau:
-Ngăn cản sự xâm nhập của các tế bào T hoạt hóa từ tế bào nội mô vào
thượng bì và bì;
-Ngăn cản quá trình sản xuất cytokine Th1;
-Trực tiếp kháng lại các đáp ứng của cytokine Th1;
Vẩy nến hiện nay vẫn chưa thể chữa khỏi hoàn toàn mà chỉ làm giảm,
sạch thương tổn và kéo dài thời gian tái phát. Có nhiều phương pháp điều
trị và dựa vào tuổi, phái, dạng lâm sàng, vị trí sang thương cũng như sự
lan tỏa của bệnh.
Điều trị tại chỗ thường được sử dụng trong vẩy nến mức độ nhẹ và trung
bình. Vẩy nến mức độ trung bình và nặng có thể phải sử dụng quang trị
liệu hoặc thuốc hệ thống.

V. Điều trị tại chỗ
Có rất nhiều thuốc được sử dụng tại chỗ trong điều trị vẩy nến. Gần đây,
một số loại thuốc mới như tazaroten và tacrolimus cũng có hiệu quả trong
điều trị vẩy nến.
Thuốc điều trị tại chỗ :Corticoisteroid : Dễ sử dụng, tác dụng nhanh
.Calcipotriene: Dung nạp tốt . Anthralin . Acid salicylic . Tazarotene
VII. Điều trị hệ thống cổ điển
Ciclosporin: Hiệu quả cao . Methotrexate . Acitretin . Fumaric acid ester .
Hydroxyurea . Dapson
VIII. Một số tuốc mới trong điều trị vẩy nến : Alefacept .Efalizumab
(anti-CD11a) .OKTcdrα (anti-CD4) .CTLA4-Ig .Infliximab (anti TNF-α)
.Etanercept (anti TNF-α) .Adalimumab (anti TNF-α) .IL-10 .Onercept
(anti TNF-α) .AYURDERME và Kliquidclorophyl-A
Trong đ ó : Alefaceft là một protein tái kết hợp, bao gồm đoạn tận cùng
IFA-3 (kháng nguyên liên quan chức năng bạch cầu) và đoạn Fc của IgGI
của người. Thuốc này được Cơ Quan Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ
(FDA) công nhận trong điều trị vẩy nến mảng trung bình và nặng vào
tháng 1/2003.
Efalizumab là một kháng thể đơn clon IgG1 được nhân hóa trực tiếp
chống lại bán đơn vị CD11a trong LFA-1. Efalizumab được điều chế từ tế
bào buồng trứng chuột đồng Trung Quốc và được nhân hóa nhằm làm
giảm tính sinh miễn dịch. Thuốc này được FDA công nhận trong điều trị
vẩy nến vào tháng 10/2003.
Etanerceft là một phân tử tái kết hợp bao gồm thụ thể TNF-ap75 của
người (yếu tố hoại tử khối u) và đoạn Fc của IgG1 của người. Etanerceft
là một protein hợp chất nhị trùng được điều chế từ tế bào buồng trứng
chuột đồng Trung Quốc và được công nhận trong điều trị viêm khớp dạng
thấp, viêm khớp vẩy nến và viêm cứng cột sống.
Rosiglitazone maleate là một thiazolidinedione uống được Hoa Kỳ công
nhận trong điều trị đái tháo đường loại 2 và hiện đang được nghiên cứu

trong điều trị vẩy nến. Thuốc này là một đồng vận mạnh và chọn lọc của
PPAR-g (thụ thể hoạt hóa yếu tố tăng sinh peroxisome). Chất này có tác
dụng ức chế sản xuất cytokine và thúc đẩy sự biệt hóa tế bào.
Tazarotene là một retinoid, gần đây được công nhận trong điều trị vẩy
nến mảng với dạng uống. Tazarotene chuyển hóa thành chất hoạt động,
acid tazarotenic và có thời gian bán hủy từ 7 – 12 giờ. Vì vậy, tazarotene
có thể là thuốc thay thế an toàn trong điều trị vẩy nến bằng retinoid hệ
thống đối với những phụ nữ ở tuổi sinh đẻ.
AYURDERME và Kliquidclorophyl-A ;Thuốc thảo dược cho hiệu quả
rất tốt .Tỷ lệ bệnh nhân khỏi bệnh cao đặc biệt không có tác dụng phụ
IX. Kết luận
Vẩy nến là một bệnh do phản ứng miễn dịch gây viêm. Các thuốc ức chế
miễn dịch hiện nay có hiệu quả trong việc kiểm soát vẩy nến đến một
mức độ nhất định nhưng cũng còn nhiều bất lợi như độc tính cao và dễ tái
phát khi ngưng điều trị. Thế hệ điều trị mới tập trung chủ yếu vào các
mục tiêu chuyên biệt trong phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào.
Chúng ta có thể hy vọng trị liệu như thế sẽ giúp bệnh nhân dung nạp tốt
hơn và không còn những tác dụng phụ nghiêm trọng như độc gan, độc
thận và ức chế tủy.
Kiêng ky Và hạn chế:
Thịt, sữa, trứng: vì chứa nhiều arachidon là chất xúc tác cho phản ứng
viêm tấy không chỉ ngoài da, mà trong khớp, trên thần kinh ngoại biên…
Rượu bia: vì độ cồn là đòn bẩy cho phản ứng thoái biến các loại chất đạm
có tác dụng sinh dị ứng. Hơn nữa, tiến trình giải độc rượu của gan bị trì
trệ rất nhiều ở người có cơ địa vảy nến.
Các bạn có thể tham khảo kỹ hơn trên hai wedsite chuyên nghành:
www.thuocchuabenh.net hoặc www.dalieu.com






×