Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

TÌNH HÌNH KT,XH VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VN NỬA ĐẦU NHỮNG NĂM 1930_3 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.68 KB, 8 trang )

TÌNH HÌNH KT,XH VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
VN NỬA ĐẦU NHỮNG NĂM 1930

Báo “Người lao khổ” (sau đổi tên là Lao khổ), cơ quan ngôn luận của Xứ
ủy Trung Kì, số 13, ngày 18 – 9 – 1930 viết: “Cuộc bãi công Bến Thuỷ là
một thời kì mới, thời kì đấu tranh kịch liệt đã đến”.

Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân hai tỉnh Nghệ
An, Hà Tĩnh, Đảng đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ, từ
các làng mạc kéo đến huyện lị, tỉnh lị như Nam Đàn (6 - 8), Can Lộc (4 –
8), Thanh Chương (12 – 8), Nghị Lộc (29 – 8).

Từ cuối tháng 8 – 1930, các cuộc biểu tình của công nhân đã dẫn đến
bạo lực và không thừa nhận chính quyền đế quốc, phong kiến.

Sang tháng 9 – 1930, phong trào đấu tranh lên đến đỉnh cao, đánh dấu
bằng những cuộc đấu tranh quyết liệt và quy mô lớn của hàng chục vạn
nông dân Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn, Nghi Lộc,
Hưng Nguyên, Đô Lương, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kì Anh.

Ngày 1 – 9 – 1930, 20.000 nông dân Thanh Chương biểu tình đòi bỏ
thuế, giảm thuế, thả tù chính trị. Lính pháp bắn vào đoàn biểu tình
nhưng quần chúng vẫn tiến vào huyện đường, thả tù nhân, đốt hồ sơ,
sổ sách. Bọn hào lí địa phương bỏ chạy. Hầu hết các thôn, xã của huyện
Thanh Chương trong tình trạng không chính quyền. Nhân dân xã Võ Liệt
tự động đứng ra tổ chức điều hành các công việc trong xã.

Ngày 5 – 9, nông dân Anh Sơn biểu tình ủng hộ nhân dân Thanh
Chương với các khẩu hiệu: “Bãi bỏ thuế thân”, “Chia lại ruộng đất”,
“Thả tù chính trị”… Trong các ngày 5 – 9 và 7 – 9, nông dân Diễn Châu,
Can Lộc đốt phá nhà giam.



Từ ngày 8 đến 11 – 9, hàng chục ngàn nông dân huyện Nam Đàn, Thanh
Chương, Diễn Châu, Anh Sơn, Nghi Lộc, Cẩm Xuyên, Kì Anh nổi dậy.
Những người biểu tình đã xung đột đổ máu với binh lính, cảnh sát thực
dân.

Ngày 12 – 9, cuộc đấu tranh dâng lên mạnh mẽ. Tại Hưng Nguyên hơn
20.000 nông dân đã liên kết với nông dân huyện Nam Đàn tổ chức một
cuộc biểu tình vũ trang lớn, ủng hộ công nhân Bến Thủy bãi công và
hưởng ứng nông dân các tỉnh khác đấu tranh, với khẩu hiệu: “Đả đảo
chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến”. Đoàn biểu tình dài hơn 1 km
kéo về Vinh. Trên đường đi, đoàn biểu tình thỉnh thoảng dừng lại diễn
thuyết, chỉnh đốn đội ngũ. Dọc đường, đoàn biểu tình được bổ sung
thêm và khi về đến Vinh đã lên tới 30.000 người, dài 4 km.

Thực dân Pháp đã đàn áp dã man. Chúng điều 5 máy bay đến ném bom
và bắn súng máy vào đoàn biểu tình, có 174 người chết. Ngày hôm sau,
khi tổ chức đưa tang những người bị chết, thược dân Php lại cho máy
bay đến ném bom, 43 người nữa bị chết. Trong 2 ngày 12 và 13 tháng 9
năm 1930, thực dân Pháp đã giết chết 217 người, làm bị thương 125
người, đốt cháy 277 ngôi nhà, triệt hạ hoàn toàn hai làng Lộc Châu và
Lộc Hải.

Sự khủng bố đẫm máu của thực dân Pháp không ngăn chặn được
phong trào đáu tranh. Sau ngày 12 – 9, lễ truy điệu những người hi sinh
ở Hưng Yên được tổ chức ở khắp nơi. Đồng thời, phong trào đấu tranh
cũng dâng cao hơn bao giờ hết. Quần chúng phá nhà lao, đốt huyện
đường, vây đồn lính khố xanh, phá trạm điện tín, trừng trị bọn địa chủ
tàn ác và bọn cường hào phản động. Chính quyền đế quốc, thực dân bị
tê liệt và tan rã nhiều nơi.


Bọn thực dân hoang mang trước sự phát triển mạnh mẽ của phong
trào. Báo cáo của Hăngri Móocsê (Henri Morché) viết: “Chỉ trong vòng
vài tuần, chủ nghĩa cộng sản lan dần từ chỗ này đến chỗ khác, hầu như
khắp các làng trong thung lũng sông Cả và đồng bằng Hà Tĩnh”. Nhiều
Tri phủ, Tri huyện bỏ trốn, một số hào lí mang triện trả lại cho Tri huyện
hoặ xin nghỉ việc. Toàn quyền Rôbanh (Rene Robin) đã phải thừ nhận:
“Họ hoàn toàn bất lực, chẳng làm được điều gì để ngăn cản sự mở rộng
của phong trào, chính quyền bản xứ thuộc mọi cấp trong tỉnh đều tê
liệt, không thể nêu tên một người cầm đầu nào, không thể nhờ cậy vào
một sự trợ giúp nào của các chức trách cấp tổng và xã, khiến người ta
có cảm giác rằng họ đã mất hết tất cả uy quyền trên đám quần chúng
mà họ cai trị.

Sự sợ hãi làm tê liệt các ông quan, các ông này khóa cổng chui vào
trong nhà và chỉ lo có mỗi việc phòng vệ cho chính bản thân họ. Mỗi khi
các ông Tri phủ, Tri huyện đi tuần theo quân đội hoặc lính bản xứ, họ đi
mà nình mẩy, chân tay run lẩy bẩy”.

Trước tình trạng chính quyền thực dân, phong kiến tan rã ở nhiều địa
phương Nghệ - Tĩnh, mặc dù Đảng chưa có chủ trương giành chính
quyền lúc này, các Chi bộ Đảng và Nông hội đỏ đứng trước thực tế này
đã quản lí và điều hành mọi hoạt động trong làng, xã. Những người
cách mạng dựa trên những hiểu biết sơ lược về chính quyền Xô viết ở
Nga qua sách báo, tài liệu của Đảng, đứng ra quản lí xã hội. Một hình
thức mới của chính quyền xuất hiện: Chính quyền Xô viết. Tuy sơ khai,
nhưng thực chất đó là một chính quyền cách mạng do giai cấp công
nhân lãnh đạo.

Bộ máy chính quyền của đế quốc và phong kiến bị đập tan. Chính quyền

Xô viết ban bố và thực hiện các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân. Các
tầng lớp nhân dân nhiệt tình tham gia các tổ chức chính trị như Nông
hội, Đội Tự vệ, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Phụ nữ giái phóng, Hội Cứu
tế đỏ v.v và tích cực phát huy vai trò làm chủ của mình trong nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ chính quyền Xô viết, quản lí xã hội.

Tại Nghệ An, chính quyền Xô viết được thành lập ở các xã thuộc huyện
Thanh Chương, Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng
Yên và Diễn Châu. Tại Hà Tĩnh, các xã thuộc huyện Can Lộc, Đức Thọ,
Thach Hà, một số xã thuộc huyện Nghi Xuân, Hương Khê cũng hình
thành chính quyền Xô viết.
Về chính trị: Chính quyền Xô viết ban bố và thực hiện các quyền tự do,
dân chủ cho nhân dân. Quần chúng được tự do tham gia các hoạt động
đoàn thể, như Nông hội, Đội Tự vệ, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Phụ nữ
giải phóng, Hội Cứu tế đỏ…, tự do hội họp, giải quyết các vấn đề xã hội.

Về kinh tế: Chính quyền mới tịch thu ruộng đất công, thóc lúa công,
chia cho dân nghèo, bãi bỏ các loại thuế bất hợp lí, như thuế thân, thuế
chợ, thuế đò…, quan tâm công tác đắp đê, phòng lụt, tu sửa đường sá,
cầu cống, tổ chức các hình thức hợp tác sản xuất.

Về văn hóa xã hội: Chính quyền Xô viết tổ chức cho nhân dân học chữ
Quốc ngữ, xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, giữ vững an ninh
trật tự ở thôn xã. Hoạt động của Xô viết Nghệ - Tĩnh nói lên sức sáng
tạo của một chế độ xã hội mới. Nguyễn Chấn, một Đốc học được cử về
“dẹp loạn cộng sản”, trong báo cáo gửi cho Khâm sứ Trung Kì vào tháng
7 – 1931 đã viết: “Hào lí bỏ trốn, cộng sản truất quyền của họ và cử
người tin cẩn lên thay. Họ cấm thu thuế, tự chia ruộng đất. Buổi tối,
Ban chấp hành của họ hội họp để ban hành và thực hiện đường lối
chính trị của Xô viết.


Họ chôn cất người chết, cấp tiền bạc cho gia đình những người chết
hoặc bị nạn trong các cuộc biểu tình, cho cả những người nghèo khổ
nữa. Họ phát thuốc cho người ốm, xử các vụ kiện tụng. Họ trừng trị
những người nghiện thuốc phiện, nghiện rượu và cấm hội hè cúng tế
trong làng. Họ không nộp các thứ thuế cho Chính phủ. Họ trừng trị kẻ
phạm pháp, cứu giúp người nghèo khổ. Nghĩa là họ làm đủ mọi cách để
ảnh hưởng, nêu gương cho mọi người. Cho nên mệnh lệnh của họ được
thi hành ngay tức khắc và không bị mảy may cản trở dù cho binh lực
của Nhà nước mạnh như thế nào cũng mặc”.

Điều kiện cơ bản để tạo bước tiến của phong trào ở Nghệ - Tĩnh là do
Nghệ - Tĩnh sớm có một Đảng bộ mạnh, sớm xây dựng được khối liên
minh công nông vữnh chắc. Năm 1931, Nghệ - Tĩnh có 2.011 đảng viên,
399 hội viên Công hội, 48.464 hội viên Nông hội, 6.648 hội viên Phụ nữ
giải phóng và 2.356 đoàn viên Thanh niên Cộng sản. Vinh – Bến Thủy là
khu công nghiệp lớn với 6.000 công nhân, có mối liên hệ chặt chẽ, tự
nhiên với nông dân trong vùng.

Nhân dân Nghệ - Tĩnh bị nhiều khổ đau, cùng cực, có truyền thống yêu
nước, truyền thống đấu tranh chống áp bức, bóc lột và phải chịu nhiều
tai họa do thiên nhiên khắc nghiệt giáng xuống. 97 cuộc bãi công, biểu
tình của công nông Nghệ - Tĩnh từ ngày 1 – 5 đến tháng 8 – 1930 là tiền
đề của Xô viết Nghệ - Tĩnh. Trên cơ sở đó, đội quân chính trị hùng hậu
của quần chúng hình thành. Sức mạnh cúa đội quân này đã làm sụp đổ
một phần bộ máy thống trị của đế quốc Pháp ở nông thôn từ những
ngày đầu tháng 9 năm 1930.

Trong phong trào cách mạng của cả nước những năm 1930 – 1931 đã
xuất hiện Xô viết Nghệ - Tĩnh và đây là nguồn cổ vũ mạnh mẽ quần

chúng đấu tranh. Tuy thực dân Pháp khủng bố dã man phong trào đấu
tranh ở Nghệ - Tĩnh, nhưng các cuộc biểu tình, thị uy của quần chúng
càng trở nên quyết liệt. Trước tình hình đó, thực dân Pháp tập trung lực
lượng và dùng những thủ đoạn thâm độc để đối phó. Chúng phái
những tên thực dân đầ sỏ như Toàn quyền Pãtkiê (Pierre Pasquyer),
Khâm sứ Trung Kì LơPhôn (Le Fol) và nhữnh tên tay sai tàn bạo Nguyễn
Hữu Bài, Nguyễn Khoa Kì, Tôn Thất Đàn… tới Nghệ - Tĩnh trực tiếp
nghiên cứu, vạch kế hoạch đàn áp. Chúng thực hiện một chương trình
bình định Nghệ - Tĩnh về quân sự, chính trị, văn hóa. Nhiều đơn vị lính
khố đỏ, lính lê dương được điều động tới Nghệ - Tĩnh, ban bố lệnh thiết
quân luật, dùng thủ đoạn thâm độc “buộc dân cày ra đầu thú”, bắt
nhân dân tổ chức “rước cờ vàng”, nhận thẻ “quy thuận”. Chúng ráo riết
săn lùng những người cộng sản. Tôn Thất Đàn tuyên bố: “Hữu Nghệ -
Tĩnh bất phú, vô Nghệ - Tĩnh bất bần” (có Nghệ - Tĩnh cũng không giàu,
không có Nghệ - Tĩnh cũng không nghèo) và ra sức đàn áp. Ngoài ra,
chúng còn xuất bản sách báo, như Hoan Châu Tân báo, Thanh – Nghệ -
Tĩnh thanh văn…vu cáo chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô.

Trong phong trào cách mạng 1930 – 1931 và phong trào cách mạng ở
Nghệ - Tĩnh, Trung ương Đảng đã theo dõi sát tình hình diễn biến và chỉ
đạo, uốn nắn kịp thời phương hướng và phương pháp đấu tranh.

×