Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

MIỀN BẮC VỚI CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ I & SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CNXH_4 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.13 KB, 10 trang )

MIỀN BẮC VỚI CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN
THỨ I & SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CNXH

Mở cuộc hành quân này, Mĩ - ngụy nhằm bao vây tiêu diệt một bộ phận
quan trọng lực lượng chủ lực của ta; phá huỷ căn cứ cách mạng, kho
tàng, giao thông; giải toả Đường số 7, lập tuyến ngăn chặn ở Đông và
Đông Bắc Campuchia. Địch coi đây làm một mũi phối hợp quan trọng
với cuộc hành quân "Lam Sơn - 719 " trên mặt trận Đường 9 -Nam Lào.
Bị chủ lực của ta cùng với quân và dân Campuchia tiến công liên tiếp,
địch phải bỏ dở cuộc hành quân trong tháng 3-1971.

Thất bại nặng nề ở Đường 9 - Nam Lào và Đông Bắc Campuchia, quân
ngụy Sài Gòn bộc lộ sự bất lực trong vai trò xung kích trên bán đảo
Đông Dương. Tình hình chiến sự cũng làm cho chính quyền Níchxơn
nhận thấy cần phải đẩy mạnh xây dựng quân ngụy Phnôm Pênh có khả
năng đứng vững và đối phó được với phong trào cách mạng
Campuchia, tạo điều kiện để rút bớt quân ngụy Sài Gòn về miền Nam và
do đó mới có thể rút thêm quân Mĩ về nước.

Với ý đồ đó từ 20-8-1971, đế quốc Mĩ huy động khoảng 20.000 quân
ngụy Phnôm Pênh, có sự yểm trợ của không quân Mĩ và ngụy Sài Gòn,
mở cuộc hành quân "Chenla 2", nhằm lấn chiếm vùng giải phóng, chia
cắt chiến trường Campuchia thành nhiều khu vực để tiện "bình định"
gom dân, cắt đường hành lang của ta từ đông sang tây. Đây là cuộc
hành quân đầu tiên và lớn nhất của quân ngụy Phnôm Pênh trong chiến
lược "Khơme hoá chiến tranh" của Mĩ. Quân chủ lực ta cùng với quân
giải phóng Campuchia tiến công mạnh, tiêu diệt nhiều địch. Trước nguy
cơ bị tiêu diệt, ngụy quyền Phnôm Pênh phải ra lệnh tàn quân rút khỏi
Đường số 6. Ngày 2-12, cuộc hành quân "Chenla 2 " kết thúc bằng cuộc
tháo chạy của quân ngụy Phnôm Pênh ra khỏi những mục tiêu chúng
vừa chiếm đóng và bị loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 12.000 tên. Âm


mưu "Khơme hoá chiến tranh" của Mĩ bị giáng một đòn mạnh. Vùng
giải phóng Campuchia được mở rộng với khoảng 80% đất đai và 60%
dân số. Những thắng lợi quân sự của nhân dân ba nước Đông Dương đã
đẩy Mĩ -ngụy vào thế bị động, bế tắc cả về chiến lược, chiến thuật,
chiến dịch, làm rung chuyển hệ thống phòng ngự từ xa của chiến lược
"Việt Nam hoá chiến tranh".

Ngược lại, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang và thắng lợi quân sự
cổ vũ, ở hầu khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven đô thị,
quần chúng nhân dân nổi dậy chống ác ôn, phá thế kìm kẹp, giành
quyền làm chủ. Nhiều ấp chiến lược bị san bằng, chương trình "bình
định" nông thôn bị giáng một đòn nặng nề.

Ở các đô thị, đông đảo công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, Phật tử,
các tầng lớp lao động tổ chức bãi công, bãi khoá, mít tinh, biểu tình, hội
thảo, đưa đơn kiến nghị đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi hoà bình,
đòi Mĩ rút về nước Phong trào nổ ra liên tục và rầm rộ nhất là ở Sài
Gòn, Huế, Đà Nẵng, những nơi có lực lượng học sinh, sinh viên khá
đông đảo và thường là
"ngòi nổ" cho phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân.

Từ trong phong trào đấu tranh, họ cất cao tiếng hát"Xuống đường ",
"Dậy mà đi "; đi vào các ngõ phố, ra ngoài đồng ruộng, gặp gỡ và nói
cho đồng bào nghe những thủ đoạn lừa bịp của Mĩ - ngụy, đồng thời
nghe đồng bào kể tội ác của Mĩ - ngụy đối với đồng bào. Nhiều học sinh,
sinh viên tự nguyện xếp bút nghiên, lên đường ra mặt trận chiến đấu
chống bè lũ cướp nước và bán nước.

Cùng với thắng lợi về quân sự, nhân dân ta còn giành được thắng lợi to
lớn trên mặt trận chính trị, ngoại giao. Đáp ứng yêu cầu cấp bách của

cách mạng miền Nam, Đại hội quốc dân gồm đại biểu của Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc
dân chủ và hoà bình Việt Nam cùng đại biểu các lực lượng yêu nước
khác ở miền Nam được triệu lập (từ ngày 6 đến ngày 8-6-1969). Đại hội
long trọng tuyên bố thành lập chế độ Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đề
ra những quy định lớn về đường lối đối ngoại và về cơ cấu tổ chức. Đại
hội bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam
do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, Bác sĩ Phùng Văn Cung,
Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, ông Nguyễn Đoá - một nhân sĩ trí thức - làm
Phó Chủ tịch; Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà
miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Luật sư
Trịnh Đình Thảo làm Phó Chủ tịch.

Việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam, biểu
hiện ý chí của nhân dân miền Nam, thực hiện quyền làm chủ của mình.
Sự ra đời của Chính phủ

Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đánh dấu một bước
hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng của nhân dân miền Nam.
Ngay sau khi ra đời (6-1969), Chính phủ cách mạng đã được 23 nước
trên thế giới công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.

Ngày 10-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời đề ra chương trình
hành động, gồm các chính sách lớn về vấn đề đẩy mạnh cuộc chiến đấu
chống Mĩ; hoà hợp dân tộc; khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển
văn hoá; bảo đảm các quyền tự do dân chủ, trong đó có chính sách về
ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng". Tính đến đầu
năm 1971, chính quyền cách mạng đã cấp 1,6 triệu hécta ruộng đất cho
nông dân. Nếu tính cả số ruộng đất được chia trong kháng chiến chống

Pháp bị cướp đi, nay giành lại được, thì tổng số ruộng đất do nông dân
làm chủ là 2,1 triệu hécta trong tổng số 3,5 triệu hécta đất canh tác trên
toàn miền Nam.

Cùng thời gian trên, vùng giải phóng được mở rộng thêm 3.600 ấp với
khoảng 3 triệu dân. Bốn Ban đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời
được thành lập ở bốn miền: Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam
Bộ và Tây Nam Bộ. Uỷ ban nhân dân cách mạng được thành lập ở tất cả
44 tỉnh, 6 thành phố, 182 huyện và hơn 1.500 xã. Trong những năm
kháng chiến chống Mĩ , khối liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc Đông
Dương được hình thành và ngày càng bền chặt. Ngay từ đầu năm 1965,
trước hành động leo thang mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mĩ, từ ngày 1 đến ngày 9-3- 1965, tại Phnôm Pênh đã diễn ra cuộc Hội
nghị nhân dân ba nước Đông Dương. Hội nghị nhấn mạnh "sự cần thiết
phải củng cố tình đoàn kết chân thành và bền vững của các dân tộc
Đông Dương" trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ
xâm lược.

Hội nghị có sự tham gia của Đoàn đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng đồng xã hội bình
dân Campuchia, Neo Lào Hắc Xạt, lực lượng trung lập yêu nước Lào và
các đoàn thể, tổ chức thuộc ba nước hành động ấy , đế quốc Mĩ muốn
tạo điều kiện thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", đồng
thời liên kết ngụy quyền Sài Gòn, Phnôm Pênh, Viên Chăn thành một
trục tay sai đắc lực để chia cắt, cô lập bóp nghẹt cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam.

Tình hình đó đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải tăng cường khối đoàn
kết chiến đấu ba dân tộc Đông Dương. Đáp ứng yêu cầu ấy, Hội nghị
cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương gồm những người đứng đầu

của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Lào và
Campuchia được triệu tập trong 2 ngày (24 - 25-4-1970). Hội nghị ra
bản Tuyên bố chung có tính chất cương lĩnh đấu tranh của nhân dân ba
nước Đông Dương, đồng thời cũng là hiến chương về mối quan hệ giữa
nhân dân ba nước láng giềng cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung.

Thắng lợi của Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước đánh dấu bước phát
triển mới rất quan trọng của mối tình đoàn kết chiến đấu giữa ba dân
tộc trên bán đảo Đông Dương. Đó cũng là một đòn giáng mạnh vào
chiến lược "Đông Dương hoá chiến tranh" của đế quốc Mĩ . Trong thời
kì đấu tranh chống chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", nhân dân ta
cũng luôn luôn nhận được những tình cảm đặc biệt của bạn bè trên thế
giới. Cả loài người tiến bộ, trong đó có nhân dân tiến bộ Mĩ ĩ đều công
phẫn lên án chính quyền Ních ơn, kiên quyết đòi chúng chấm dứt chiến
tranh xâm lược, rút toàn bộ quân Mĩ về nước. .Trong bối cảnh đó, Hội
nghị các Đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đoàn kết với nhân dân
Việt Nam họp tại Phari(27-7-1972). Tham dự Hội nghị có 27 đoàn đại
biểu, gồm các đoàn đại biểu các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu, các
đoàn đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước Tây âu và Bắc
Âu. Hội nghị đã thông qua một bản tuyên bố quan trọng về vấn đề Việt
Nam: "Ngày nay, không có một nhiệm vụ nào cao quý hơn và cấp bách
hơn là ủng hộ nhân dân các nước Việt Nam, Lào, Campuchia và tố cáo
những tội ác chiến tranh của Mĩ ở Đông Dương".

Tiếp theo Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đoàn kết
với nhân dân Việt Nam, từ ngày 10-8-1972, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao 59 nước không liên kết cũng được triệu tập tại Gióocgiơtao (thủ đô
Cộng hoà Guyanna). Hội nghị long trọng công nhận địa vị hợp pháp của
đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam
và đại diện Chính phủ Vương quốc Campuchia trong đại gia đình các

nước không liên kết; đồng thời không công nhận đại diện của ngụy
quyền Sài Gòn và ngụy quyền Phnôm Pênh.

Những thắng lợi quân sự và chính trị trên đây, nhất là thắng lợi trên
chiến trường Campuchia và Đường 9 - Nam Lào đã tạo nên một sự thay
đổi cục diện có lợi cho ta.

Tháng 5-1971, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp để đánh giá tình hình,
phán đoán âm mưu của địch và xác định thời cơ chiến lược Bộ Chính trị
đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta là: "kịp thời nắm lấy thời cơ
lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến
công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến
công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường
Đông Dương, đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh của Mĩ,
đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở
Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế
quốc Mĩ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua,
đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong
trường hợp chiến tranh còn kéo dài" .

Bước vào mùa xuân năm 1972, Mĩ - ngụy biết ta sẽ tiến công lớn nhưng
không dự đoán nổi thời điểm, phương hướng chủ yếu, quy mô, cường
độ cuộc tiến công. Chính vào lúc địch sơ hở do phán đoán sai thời gian
và chờ đợi kéo dài, trưa ngày 30-3-1972, quân ta mở cuộc tiến công
chiến lược trên toàn miền Nam nhằm tiêu diệt bộ phận lớn lực lượng
địch, mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực
lượng, thay đổi cục diện chiến trường miền Nam.

Trong cuộc tiến cộng chiến lược này, ta chủ trương kết hợp ba đòn
chiến dịch có ý nghĩa chiến lược: Tiêu diệt địch trên chiến trường lựa

chọn; tiến công và nổi dậy ở vùng nông thôn đông dân để đánh phá
bình định; đấu tranh chính trị ở các thành thị; đồng thời kết hợp ba mặt
đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, giành thắng lợi quyết định.

Quân ta đồng loạt nổ súng tiến công trên ba hướng: Đường số 9 - Trị -
Thiên, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ; hướng chủ yếu là Đường 9 -
Trị -Thiên. Với những đòn tiến công mạnh, quy mô rộng lớn trên khắp
các địa bàn chiến lược quan trọng, sau gần 3 tháng chiến đấu quân ta
đã phá vỡ ba tuyến phòng thủ vững chắc nhất của địch (Quảng Trị, Tây
Nguyên và Đông Nam
Bộ); loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 250.000 địch, phá huỷ nhiều
phương tiện chiến tranh; giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, phần lớn
tỉnh Kon Tum, phía Bắc tỉnh Bình Định, một khu vực rộng lớn và hoàn
chỉnh ở miền Đông Nam Bộ thuộc các tỉnh Tây Ninh , Bình Long và
Phước Long. . .

Sau đòn mở đầu bất ngờ, choáng váng của quân ta, được sự yểm trợ tối
đa của hoả lực , không quân và hải quân Mĩ, quân ngụy đã phản công
mạnh, gây cho ta nhiều thiệt hại. Tập đoàn Níchxơn "Mĩ hoá" trở lại
một phần cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại lần thứ hai bằng không quân và hải quân đối với miền
Bắc Việt Nam.

Mặc dù vậy, cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè năm 1972 của quân và
dân ta có ý nghĩa to lớn, mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chân chống
Mĩ cứu nước. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" bị giáng một đòn
rất mạnh và có nguy cơ phá sản hoàn toàn.

×