Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

VỆ SINH KHÔNG KHÍ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.42 KB, 28 trang )


VỆ SINH KHÔNG KHÍ

I. Những khái niệm chung
1. Các tầng khí quyển
Khí quyển được chia thành 3 tầng cơ bản theo độ cao: tầng thứ nhất là tầng đối lưu,
tầng thứ hai là tầng bình lưu và tầng thứ ba là tầng điện ly.
1.1. Tầng đối lưu
Là lớp khí quyển ở sát mặt đất . Ở xích đạo, đường giới hạn của tầng đối lưu có độ
cao 17 -18km, ở Bắc cực 7 -8 km, ở Nam cực là 5 -6 km ở vĩ độ trung bình khoảng 11
km so với mặt biển.
Tầng đối lưu chứa 3/4 khối lượng không khí của khí quyển và hầu như toàn bộ hơi
nước. Không khí trong tầng đối lưu luôn luôn chuyển động cả theo chiều ngang và chiều
thẳng đứng. Đặc tính chủ yếu của tầng đối lưu là áp suất và nhiệt độ giảm theo độ cao,
trung bình cứ lên cao 100m thì nhiệt độ hạ xuống 0,6
0
C, và áp suất khí quyển giảm
khoảng 10mmHg. Ơ miền vĩ độ trung bình giới hạn trên của tầng đối lưu có nhiệt độ từ -
50 đến - 60
0
C. Trong tầng đối lưu hơi nước bốc lên từ mặt đất và trong những điều kiện
xác định có thể ngưng kết thành những giọt nước rất nhỏ, tạo thành sương mù, mây, mưa,
tuyết hoặc mưa đá. Hiện tương “Hiệu ứng nhà kính” là hiện tượng vốn có, cần thiết với
sự sống trên trái đất nhờ có trong tầng này nhiều Khí nhà kính. Nhưng ngày nay nói đến

“Hiệu ứng nhà kính” người ta muốn chỉ một hiện tượng là hậu quả của sự Ô nhiễm khí
quyển do hoạt động sản xuất của Con người.
Bên trên tầng đối lưu là lớp đối lưu hạn. Lớp này có bề dày co giãn từ vài trăm mét
đến 1,2km. Đặc điểm của lớp này là nhiêt độ không hạ thấp xuống nữa mà ổn định nhiệt.
1. 2. Tầng bình lưu
Tầng bình lưu chia 3 lớp:


- Lớp dưới (đẳng nhiệt) từ đối lưu hạn cho tới 30 - 35km nhiệt độ trong lớp này
khoảng -55C.
- Đáng chú ý là lớp trung bình (nóng) nhiệt độ bắt đầu tăng và khi lên tới 60km đạt
tới 65C - 75C, lý do là vì cấu tạo lớp này tập trung chủ yếu Ôzôn (O
3
) có khả năng hấp
thu bức xạ tử ngoại. Mấy chục năm gần đây, mức độ ô nhiễm không khí tăng cao, trong
các thành phần gây ô nhiễm không khí có rất nhiều loại khi phá hoại tầng O
3
(đặc biệt là
chất clorofluorocacbon-CFC; sản phẩm của công nghiệp chế tạo máy làm lạnh) đã làm
mỏng đi tầng O
3
, gây ra “lỗ thủng”, làm cho cường độ các tia tử ngoại tới mặt đất tăng
lên gây ra những nguy cơ cho các sinh vật sống trên trái đất, cho sức khỏe con người.
- Lớp trên (lạnh) từ 60 - 80km, ở đây nhiệt độ lại giảm đi rất nhanh theo độ cao.
Không khí ở tầng bình lưu chỉ chuyển động theo chiều ngang và tốc độ chuyển
động lớn (đến 100m/s)
1.3. Tầng điện ly

Là vùng không khí loãng nằm trên tầng bình lưu. Tầng điện ly chủ yếu là các ion từ
các nguyên tử khí. Tầng này có ý nghĩa lớn trong kỹ thuật vô tuyến viễn thông.
Ngoài tầng điện ly là hai vành đai phóng xạ
2. Hoá học bình thường của khí quyển
O
2
: Dưỡng khí cần thiết cho các quá trình oxy hóa, cho các hoạt động sống của sinh
vật. Giới động vật tiêu thụ rất nhiều O
2
, nhưng được bù lại bởi giới thực vật, cho nên, nói

chung nồng độ O
2
trong không khí ngoài trời luôn ổn định. Chỉ có những nơi kín, kém
thông thoáng, nồng độ O
2
mới giảm, và thường kèm theo tăng CO
2
. Lên trên cao, không
khí loãng dần nên lượng O
2
tuyệt đối cũng giảm. Vi dụ, ở độ cao 3 000 m , nồng độ O
2

còn 15%; 5000 m , nồng độ O
2
còn 11%.
CO
2
: Thán khí có nguồn gốc từ khí thở ra của giới động vật, từ sự đốt cháy các loại
nhiên liệu, quá trình phân giải thối rửa các chất hữu cơ, bốc lên từ trong lòng đất (từ hầm
mỏ, núi lửa, suối khoáng), Và được tiêu thụ bởi giới thực vật. Đại dương có vai trò quan
trọng trong việc điều hòa nồng độ CO
2
trong không khí. Khi CO
2
trong không khí tăng,
chúng sẽ hòa vào nước biển; khi CO
2
trong không khí giảm, nước biển sẽ nhả CO
2

vào
không khí theo phản ứng thuận nghich: CO
2
+ . H
2
O H
2
CO
3

Những nơi kín, kém thông thoáng (như dưới các giếng sâu, trong các hầm mỏ,
những nơi vừa mới nổ mìn) nồng độ CO
2
có thể tăng cao gây nguy hiểm cho con người.
Tại nơi cư ngụ của con người, nhất là khi tập trung đông người trong một không
gian hẹp, kém thông thoáng, nồng độ CO
2
có thể tănglên; con người ngoài thải ra CO
2
,
còn thải ra các loại hơi khí độc khác, chính các loại hơi khí đi kèm này gây nên sự khó

chiu và có thể gây độc cho con ngưòi. Cho nên người ta dùng mức CO
2
(1%
0
) trong
không khí để làm chỉ điểm vệ sinh cho những nơi cư trú của con người, mặc dù ở nồng
độ CO
2

1p. 1 000 đó hoàn toàn chưa ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
Các thành phần của không khí cùng với các yếu tố của khí tượng là những tác nhân
quan trọng của hòan cảnh bên ngòai ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên cơ thể con
người.
Con người sống và làm việc trong môi trường không khí; khi làm một công việc
bình thường người ta phải hít một lượng không khí gấp 2 - 3 lần so với lúc nghỉ ngơi. Thể
tích hít vào trung bình của một người là 1 -1,5m
3
/1giờ; 20 - 30m
3
/24 giờ; trong một năm
là 7.200 - 10.800m
3
.
Không khí ngòai trời là một hỗn hợp của nhiều lọai khí như N
2
, O
2
, CO
2
và các
khí hiếm như Acgon, Néon, Xénon, Heli (với một tỷ lệ rất nhỏ); ngòai ra còn có hơi
nước, bụi và vi sinh vật, và cả các hợp chất không vững bền như O
3
, CO, NH
3
, NO
2
Tỷ
lệ O

2
, N
2
, CO
2
trong không khí khá ổn định, tỷ lệ của hơi nước thường xuyên thay đổi.
Thành phần của không khí(ngoài trời) và khí thở ra (%thể tích) của một người
Lọai khí N
2
O
2
CO
2
Hơi nước
Không khí
Không khí thở ra
78,97
79,20
20,7 - 20,9
15,4 - 16
0,03 - 0,04
3,4 - 4,7
Thay đổi
Bảo hòa


Tỷ lệ O
2
trong khí thở ra của người giảm gần 25%, tỷ lệ của CO
2

tăng 50 - 100 lần,
và hơi nước tăng tới bảo hòa. Lúc nghỉ ngơi, 1 người bình thường tiêu thụ 25 lit O
2

thải ra 22,60 lit CO
2
.
II. Những yếu tố khí tượng tác động lên cơ thể
1. Nhiệt độ không khí
Lớp không khí ở sát mặt đất liên quan thường xuyên và trực tiếp tới con người; lớp
không khí này nhận nhiệt từ mặt đất (mặt trời làm nóng mặt đất, đất truyền nhiệt vào
trong không khí, chứ không khí không lấy nhiệt trực tiếp từ bức xạ mặt trời). Nhiệt độ
không khí thay đổi tùy thuộc vào cường độ bức xạ của mặt trời, ngày dài hay ngắn, độ
trong suốt của bầu khí quyển, vào vị trí địa lý của từng địa phương, và vào thành phần
cấu tạo của mặt đất.
Nhiệt độ không khí có những ảnh hưởng nhất định lên cơ thê, liên quan đến quá
trình phát sinh và phát triển của một số bệnh truyền nhiễm.; nhiều lọai côn trùng tiết túc
trung gian truyền bệnh có chu kỳ phát triển liên quan chặt chẽ đến nhiệt độ không khí.
Các lòai vi sinh vật, ký sinh trùng đều có thể tồn tại và phát triển ở những điều kiện nhiệt
độ nhất định. Nhiệt độ không khí còn ảnh hưởng tới tác động của các độc chất có trong
không khí; nhiệt độ tăng làm tăng biên độ và tần số hô hấp nên sẽ làm tăng lượng chất
độc vào cơ thể theo đường hô hấp.
Nhiệt độ không khí liên quan mật thiết tới quá trình điều nhiệt của cơ thể. Sự điều
nhiệt của cơ thể con người chỉ có thể thực hiện được trong những điều kiện nhất định,

khi vượt ra ngòai giới hạn đó thì cơ thể không còn điều nhiệt được nữa, và sẽ xuất hiện sự
thay đổi thân nhiệt (do sự thăng bằng nhiệt bị phá hủy) nóng quá: say nóng; lạnh quá: tê
cóng.
2.Độ ẩm của không khí
Thành phần của không khí luôn chứa một lượng hơi nước thay đổi; có thể do

lượng hơi nước đó bằng áp lực riêng phần của hơi nước (mm thủy ngân, họặc khối lượng
hơi nước trong một thể tích không khí (gam hơi nước/1m
3
không khí).
2.1. Các đại lượng biểu thị độ ẩm trong không khí
2.1.1. Độ ẩm tuyệt đối (ĐÂTĐ): là khối lượng hơi nước có trong không khí (đơn vị
đo là g/m
3
, mmHg) tại một thời điểm nhất định;
2.1.2. Độ ẩm bão hoà(ĐÂBH): là lượng hơi nước tối đa có trong không khí ở một
nhiệt độ nhất định - hay chính là lượng hơi nước tối đa trong không khí ở nhiệt độ đó.
Nhiệt độ không khí càng cao thì lượng hơi nước bảo hòa càng tăng.
2.1.3. Độ ẩm tương đối (ĐÂPT): là tỷ lệ % giữa độ ẩm tuyệt đối và độ ẩm tối đa.
ĐÂTĐ
ĐÂPT = x 100
ĐÂBH
Ví dụ: Độ ẩm tương đối là 80%, có nghĩa là tại nhiệt độ đó còn 20% hơi nước nữa
là không khí sẽ bảo hòa.(20% gọi là độ thiếu hụt bão hoà)

2.2.Ý nghĩa vệ sinh
- Cùng với nhiệt độ, độ ẩm không khí liên quan tới sự tồn tại và phát triển của các
lọai mầm bệnh, các côn trùng tiết túc trung gian truyền bệnh, cho nên mới có các bệnh
nhiễm trùng, ký sinh trùng theo vùng khí hậu
- Anh hưởng quan trọng của độ ẩm không khí đối với cơ thể là ảnh hưởng lên quá
trình điều nhiệt; độ ẩm không khí quá cao thường có tác động không tốt tới sức khỏe; độ
ẩm cao, nhiệt độ cao, cơ thể khó mất nhiệt gây cảm giác oi bức khó chịu; độ ẩm cao;
nhiệt độ thấp làm cơ thể mất nhiều nhiệt. Khi độ ẩm thấp, không khí trở nên khô hanh
gây khát, niêm mạc khô, dễ nứt nẻ, dễ chảy máu.
2.3.Sương mù
Hiện tượng nghịch nhiệt



Không khí thường xuyên chứa một lượng hơi nước; nhiệt độ càng cao thì lượng hơi
nước có trong không khí càng tăng (nên độ ẩm tương đối ít thay đổi). Khi nhiệt độ giảm
thì hơi nước trong không khí sẽ ngưng lại tạo thành sương mù, mưa Sương mù có ý
nghĩa quan trọng trong vai trò thời tiết với ô nhiễm, sương mù là một điều kiện thuận lợi
làm xuất hiện” hiện tương nghịch nhiệt” (hình minh hoạ). Nhờ có mưa, sẽ làm sạch
không khí vì nó sẽ mang theo bụi, vi sinh vật và các chất bẩn khác có trong không khí.
Mưa còn cung cấp nước cho các nguồn nước và còn cung cấp các hợp chất của N
2
cho
cây trồng; mưa điều hòa thời tiết về mùa hè nóng bức.
3. Sự chuyển động của không khí
3.1. Gió và hoa hồng gió
Mặt trời sưởi nóng mặt đất không đều nên tạo ra các luồng chuyển động của không
khí thường xuyên. Tùy theo từng địa phương và tùy theo từng mùa mà sự chuyển động
của không khí sẽ theo những hướng nhất định. Dùng phương pháp vẽ đồ thị để nêu lên
tính chất lập lại của gió, chiều dài của đồ thị biểu thị phân xuất của một lượng gió so với
tổng số gió quan sát được trong một khoảng thời gian nhất định - làm như vậy ta sẽ có
được Hoa hồng gió - Rất cần thiết cho việc quy họach và xây dựng đô thị cũng như vệ
sinh nhà ở, trường học, bệnh viện Nhằm lợi dụng được những lọai gió mát, và tránh các
loại gió nóng, gió lạnh, tránh các lọai khói bụi, hơi khí độc từ các cơ sở sản xuất.
3.2. Ý nghĩa vệ sinh
Sự chuyển động của không khí ảnh hưởng trực tiếp lên sức khỏe của con người,
quan trọng là lên quá trình điều nhiệt của cơ thể. Ở nước ta, tùy theo từng mùa và tùy

theo từng vùng, sẽ có các loại gió khác nhau, mang các tính chất khác nhau, và sẽ ảnh
hưởng khác nhau lên quá trình điều nhiệt, và sẽ tạo ra các cảm giác khác nhau cho cơ thể
con người. Các loại gió đó là:
+ Gió nóng: gió Lào, gió Than Uyên, gió Ô Qui hồ

+ Gió lạnh: gió mùa Đông Bắc.
+ Gió mát: gió mùa Đông Nam.
Tại những nơi đô thị, sự chuyển động của không khí rất quan trọng trong vấn đề
phân tán các thành phần gây ô nhiễm không khí. Những ngày ít gió, nồng độ các chất gây
ô nhiễm không khí (chủ yếu từ khí thải xe hơi ) không được phát tán, là tác nhân quan
trọng trong các bệnh do ô nhiễm không khí gây nên, nhất là các bệnh liên quan tới cơ
quan hô hấp

4. Bức xạ mặt trới
Mặt trời là nguồn sáng, nguồn sống, nguồn nhiệt của trái đất. Năng lượng bức xạ
mặt trời tới trái đất bằng các tia trực tiếp hay khuếch tán qua không khí và mây. Thành
phần của BXMT tới trái đất có 3 loại tia:
- Tia Hồng ngoại, có bước sóng = 2 000 - 760 nm ;
- Tia Sáng, có bước sóng = 760 - 400 nm;
- Tia Tử ngoại, có bước sóng = 400 - 280 nm ;

Thành phần quang phổ của BXMT đến trái đất thay đổi tùy thuộc vào độ cao của
mặt trời, độ mây, thành phần của không khí và sẽ ảnh hưởng khác nhau lên mọi sinh vật
sống trên trái đất, trong đó có con người.
BXMT ảnh hưởng lên mọi cơ quan , hệ thống của cơ thể, lên sự tổng hợp và phân
giải các chất trong cơ thể, làm tăng tuần hoàn, kích thích tăng sinh tổ chức hạt, làm vết
thương chóng lành. BXMT liên quan tới quá trình chuyển hóa khí, muối, nước trong cơ
thể, làm tăng quá trình miễn dịch, tăng sức đề kháng chống lại bệnh tật, như bệnh còi
xương, lao xương
Tia Hồng ngoại có bước sóng 600 - 1 000 nm có sức đâm xuyên lớn, có thể xuyên
qua xương sọ, làm tăng nhiệt độ của tổ chức não hoặc rối loạn trung tâm điều nhiệt nằm ở
vùng Dưới đồi (Hypothalamus) gây say nắng; Tia Sáng tác động chủ yếu đến cơ quan thị
giác; Tia tử ngoại có tác dụng diệt khuẩn tốt.
5. Áp lực không khí
ALKK thay đổi tùy theo độ cao so vơi mặt đất. Càng lên cao, áp lực không khí càng

giảm, áp lực riêng phần của oxy cũng giảm, gây khó thở, thiếu oxy.
Khi xuống thấp, trong các giếng chìm (thợ lặn) , ALKK tăng, N
2
trong không khí sẽ
hòa tan nhiều vào máu; lúc trở lại môi trường có ALKK bình thường, N
2
hòa tan đó sẽ
thải không kịp (qua đường hô hấp), và sẽ tạo thành các bọt khí trong lòng mach, làm tắc
mạch (ở bất kỳ cơ quan nào của cơ thể nhất là các mạch máu trong xương ).
ALKK thay đổi đột ngột thường gặp trong thời tiết trước cơn bão, hoặc trước đợt
gió mùa Đông -Bắc gây nên trạng thái thần kinh kích thích , kém ăn, mất ngủ. Đặc

biệt gây thay đổi huyết áp đột ngột là tác nhân các cơn đột quỵ, hoặc Tai biến mạch máu
não
III. Thân nhiệt và sự điều nhiệt
1. Thân nhiệt
Thân nhiệt hằng định đảm bảo duy trì chuyển hóa các chất , duy trì sự phát triển
bình thường của cơ thể. Thân nhiệt bình thường của người khỏe mạnh là 36,5 - 37,5
o
C.
Để hằng định được thân nhiệt, cơ thể phải điều hòa thân nhiệt bằng cách cân bằng lượng
nhiệt mất đi và lượng nhiệt sản ra.
Nguồn nhiệt của cơ thể : Cơ thể có các nguồn nhiệt sau:
- Nhận trực tiếp từ BXMT (không phụ thuộc vào nhiệt độ không khí);
- Từ đất, đá, đồ vật xung quanh;
- Từ không khí (khi nhiệt độ không khí > 33
o
C : là nhiệt độ bình thường của bề mặt
da);
- Chuyển hoá các chất sinh năng lượng trong cơ thể.

Sự mất nhiệt của cơ thể : bằng các cách sau:
- Dẫn nhiệt: truyền nhiệt từ vật nóng sang vật lạnh;

- Đối lưu: thông qua sự chuyển động của không khí;
- Bức xa nhiệt : mọi vật khi có nhiệt độ cao hơn môi trường xung quanh đều là
nguồn Bức xạ nhiệt, nhiệt độ càng cao thì sự Bức xạ nhiệt càng mạnh.

2. Sự điều nhiệt của cơ thể có 2 cơ chế điều nhiệt:
Cơ chế “ hóa học” : Tăng hoặc giảm quá trình phân giải các chất sinh năng lượng
trong cơ thể
Cơ chế “ lý học” : Co hoặc giãn nở mạch ngoại vi, toát và bay hơi mồ hôi. Tần số
mạch tăng khi chống nóng
Người thấy dễ chịu khi nhiệt độ ngoài mặt cơ thể (bề mặt da) < 33
o
C.
2.1. Mất nhiệt trong điều kiện gần vùng dễ chịu
Khi nhiệt độ không khí < nhiệt độ bề mặt da; nghĩa là cơ thể thu nhiệt từ bên trong
nhiều hơn thu nhiệt từ bên ngoài, khi đó cơ thể sẽ truyền nhiệt ra môi trường xung quanh.
Thường vùng dễ chịu với người Việt nam khi không khí có nhiệt đô :
26  2
o
C; Độ ẩm tương đối của không khí : 79  5% ; Sự chuyển động của không
khí: 0,3 - 0,5 m/s.
2.2. Mất nhiệt trong điều kiện quá nóng

Khi nhiệt độ không khí > 33
o
C thì sự mất nhiệt của cơ thể chủ yếu bằng cách toát
và bay hơi mồ hôi (1g nước bay hơi hoàn toàn thu 580 Calo nhiệt). Sự bay hơi mồ hôi
phụ thuộc vào độ ẩm của không khí và sự chuyển động của không khí. Quân áo với vải

thoáng khí, thấm nước tốt, sẽ thấm mồ hôi, mồ hôi từ quần áo bay hơi sẽ làm lạnh quần
áo và làm lạnh da.
Sự chuyển động của không khí sẽ đẩy đi lớp không khí xung quanh da chứa nhiều
hơi nước, và thay vào đó lớp không khí mới, ít hơi nước hơn, và sẽ làm tăng quá trình
bay hơi mồ hôi. Trong trường hợp quá nóng, sự chuyển động của không khí là yếu tố
quan trọng làm giảm tác động không tốt của nhiệt độ cao lên cơ thể.
2.3. Mất nhiệt trong điều kiện lạnh
Khi nhiệt độ không khí < 15
o
C, sự mất nhiệt của cơ thể sẽ tăng do tăng quá trình
đối lưu và phát nhiệt. Sự chuyển động của không khí tăng và độ ẩm khônhg khí cao càng
làm tăng sự mất nhiệt của cơ thể. Nếu quần áo thích hợp (cách nhiệt tốt) và ăn uống đầy
đủ thì cơ thể sẽ chống rét tốt.
Chuyển biến của quá trình điều nhiệt: Các yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm của không khí,
bức xạ mặt trời, sự chuyển động của không khí đều góp phần tác động lên cơ thể; cơ thể
tìm mọi cách điều nhiệt để hằng định thân nhiệt, nhưng sự điều nhiệt của cơ thể chỉ có
thể thực hiện được trong những điều kiện nhất định của môi trường bên ngoài và môi
trường bên trong, khi cơ thể không thể điều nhiệt được nữa thì thân nhiệt sẽ bị thay đổi:
tăng hoặc giảm, và sẽ rối loạn chuyển hóa, rối loạn chức năng


Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
Mục tiêu bài giảng:
1.Trình bày được khái niệm thế nào là không khí sạch, định nghĩa ô nhiễm không
khí, mô hình phân loại ô nhiễm không khí ;
2.Liệt kê được các nguyên nhân gây ô nhiễm không khí về mặt hóa học và một số
ví dụ cụ thể .
3. Trình bày được các biện phàp phòng chống ô nhiễm không khí.
I.Khái niệm chung
1. Định nghĩa

Không khí là một hỗn hợp gồm các loại khí chủ yếu là N
2
, O
2
, CO
2
. ngòai ra còn
có một số khí hiếm như néon, héli, métan, kripton, Ở điều kiện bình thường của độ ẩm
tuyệt đối, hơi nước chiếm gần 1 - 4p.100 thể tích không khí. Ở gần mặt đất, không khí
còn có các phần tử rắn khác nữa (chẳng hạn như từ núi lửa hoặc từ kết quả họat động của
con người). Các thành phần từ bào tử, phấn hoa của cây cối không liệt vào những chất
nhiễm bẩn vì chúng là thành phần của thiên nhiên, thường gặp trong không khí. Nhiễm
bẩn không khí là kết quả của sự thải vào không khí những khí, hơi, giọt và phần tử lạ
hoặc của sự chứa đựng trong đó một lượng quá lớn các thành phần bình thường chẳng
hạn CO
2
và các phần tử rắn lơ lững do đốt các lọai nhiên liệu.
Ô nhiễn không khí chính là khi không khí có mặt một chất lạ hoặc có một sự biến
đổi quan trọng trong thành phần không khí gây tác động có hại hoặc gây ra một sự khó

chịu (sự tỏa mùi khó chịu, sự giảm tầm nhìn xa do bụi). Mặt khác sự tích lũy hay phân
tán của các chất ô nhiễm trong không khí phụ thuộc trước hết vào các điều kiện khí
tượng.
Việc phân lọai, xác định tính năng của hoạt động dẫn đến nhiễm bẩn không khí dựa
vào quan điểm chung cho rằng nhiễm bẩn không khí là kết quả họat động của con người.
Ở các nước Tây Âu từ sau thế kỷ thứ 14, có tình trạng nhiễm bẩn không khí do sử dụng
than đá làm nguồn năng lượng nhiệt. Nhiễm bẩn không khí từ lò đốt trong nhà chắc là
hình thức gây nhiễm bẩn sớm nhất, mặc dù khả năng gây tác động có hại bên trong nhà
thường mang tính cá biệt. Việc thay than bằng sản phẩm dầu khí ở nhiều nước trên thế
giới đã làm giảm bớt ô nhiễm do khói than gây ra.

Tuy nhiên việc sử dụng sản phẩm dầu khí vẫn còn quá nhiều, nhất là do các động
cơ đốt trong. Hiện nay, đây là nguyên nhân chủ yếu gây nhiễm bẩn không khí. Các động
cơ đốt trong xả ra không khí carbon oxyd, chì, nitơ oxyt và nhiều hydrocarbua khí. Nồng
độ cục bộ của các chất nầy rất cao, nhất là ở trung tâm thành phố có giao thông sầm uất.
Trong điều kiện thông gió tự nhiên không đủ và cường độ bức xạ cao sẽ gây ra phản ứng
phức tạp giữa nito oxyd và hydrocarbua tạo nên nito peoxy axinitrat và nhiều chất đặc
biệt được gọi chung là “các oxyt quang hóa học”.
II. Các tác nhân sinh vật tồn tại trong không khí
1. Vi khuẩn trong không khí

Sử dụng thuật ngữ “nhiễm khuẩn không khí” chỉ dùng trong trường hợp xảy ra sự di
chuyển tác nhân gây bệnh bằng các giọt có kích thước đủ nhỏ, có thể dừng lại trong
không khí một thời gian ở trạng thái lơ lững.
Từ mặt đất, vi sinh vật phát tán vào không khí. Ở các thành phố, không khí chứa
nhiều vi sinh vật hơn không khí ở ngọai ô và nông thôn. Trong 1m
3
không khí ở độ cao 4
- 5km chỉ có vài vi khuẩn, còn ở trên mặt đất có hàng vạn vi khuẩn. Không khí của mặt
biển và núi cao có ít bụi và vi khuẩn. Ngòai trời thường chỉ có tạp khuẩn vô hại đối với
sức khỏe, ít khi có vi khuẩn gây bệnh. Nếu đôi khi có gặp vi khuẩn trong khí trời thì vi
khuẩn này cũng nhanh chóng bị tiêu diệt bởi bức xạ mặt trời và sự khô hanh.
Về bản chất những vi sinh vật trong không khí hầu hết là tạp khuẩn. Các bụi
sương vi khuẩn là một hệ thống keo cấu tạo từ không khí trong đó có các giọt nhỏ chất
lỏng hoặc chất rắn có chứa vi khuẩn. Độ bền vững pha phân tán của bụi sương vi khuẩn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố (độ lớn, hình dạng, nồng độ các hạt, các tính chất của bản
thân vi khuẩn). Các hạt sương này đều chứa điện tích do chúng hấp thụ các ion trong
không khí.
Cuối cùng thì các hạt sương vi khuẩn đều lắng đọng lên các hạt bụi và bị khô lại,
tạo ra bụi vi khuẩn.Thời gian tồn tại trong không không khí của các hạt này tùy thuôc
vào kích thước của nó, các hạt càng nhỏ thì thời gian tồn tại trong không khí càng lâù .Sự

chuyển động của không khí, độ ẩm của không khí cũng liên quan mật thiết tới thời gian
tồn tại trong không khí của các hạt đó. Khi giảm nhiệt độ hoặc tăng độ ẩm của không khí
thì quá trình ngưng tụ hơi nước lên các hạt bụi sẽ tăng, do đó làm tăng trọng lượng các
hạt và quá trình lắng đọng của chúng. Các hạt mang điện tích trái dấu này sẽ hút nhau và

dính liền với nhau, do đó kích thước các hạt tăng lên và lắng đọng nhanh hơn. Độ bền
vững của các hạt bụi còn tùy thuộc vào thành phần vỏ bao bọc. Hình dạng các hạt bụi
càng gần hình cầu thì độ bền vững càng tăng. Độ lớn của đa số vi khuẩn thay đổi từ 0,4
tới 10. Tốc độ bốc hơi tỷ lệ nghịch với kích thước của chúng. Độ ẩm không khí ảnh
hưởng rõ rệt đến khả năng tồn tại của vi khuẩn trong các hạt bụi sương. Không khí sẽ là
vectơ làm lan truyền mầm bệnh có khả năng lây nhiễm khi có đầy đủ 2 yếu tố cơ bản sau
đây kết hợp:
- Các vi sinh vật gây bệnh tồn tại trong không khí với nồng độ đủ cao.
- Người dễ cảm thụ hít phải không khí nhiễm bẩn đó.
Các vi sinh vật gây bệnh của đa số trường hợp nhiễm khuẩn đường hô hấp có thể
bảo tồn sự sống và tính độc hại tương đối lâu ở môi trường không khí. Ví dụ: trực khuẩn
Bạch hầu sống rất khỏe và rất lâu (30 ngày); ở trong bóng tối, nó sống tới 6 tháng. Song
trực khuẩn Ho gà chịu đựng yếu, chết ở 50
0
C và không chịu được ánh sáng. Trực khuẩn
lao bị tiêu diệt bởi bức xạ mặt trời ngòai không khi. Cho nên chủ yếu trực khuẩn lao tồn
tại ở những nơi tối, ẩm. Người ta cũng còn nhắc đến những lọai Liên cầu khuẩn và Tụ
cầu khuẩn làm tan huyết truyền bệnh qua đường không khí. Thời gian tồn tại của một số
vi khuẩn gây bệnh trong không khí như sau:
Số liệu về thời gian sống trung bình của một số vi khuẩn
Lọai vi khuẩn Thời gian

Phế cầu
Liên cầu khuẩn tan huyết
Tụ cầu vàng

Trực khuẩn dịch hạch
Trực khuẩn bạch cầu
Trực khuẩn lao
4 - 5 tháng
2,5 - 6 tháng
3 ngày
8 ngày (trong không khí khô
hanh)
30 ngày
70 ngày
2. Virus trong không khí
Gồm các lọai như sau: Rhinovirus, ECHO 28, 11, 20, Coxsackie A 21, virus hợp
bào đường hô hấp, Adenovirus 1, 2, 3, 5 ; Virus cúm là một lọai điển hình gây các bệnh
dịch qua đường không khí. Các virus gây bệnh sởi, đậu mùa, quai bị.vv cũng tồn tại
trong không khí và có khả năng gây nên các vụ dịch. Các lọai virus gây bệnh ở động vật
qua đường không khí là các nhóm A (virus đậu của động vật), nhóm B (virus gây bệnh do
làm tổn thương thần kinh, virus viêm não do muỗi truyền làm động vật mắc viêm não
Saint Louis, viêm não tủy truyền nhiễm của lợn ), nhóm C (virus gây viêm họng hoặc
gây bệnh truyền nhiễm chung ở động vật) như virus cúm lợn, virus gây viêm mũi và phổi
của ngựa, virus gây bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm của gia cầm )
3. Các lọai sinh vật khác trong không khí

Nấm mốc thích nghi với việc lan truyền bào tử trong không khí. Phân tích nấm
mốc trong không khí, người ta đã thấy Penicillium và Alternaria quanh năm và
Stemphyllium thường trội lên vào mùa Xuân và mùa Thu. Các lọai nấm Alternaria và
Hemintosporium gặp nhiều vào mùa Hè và mùa Thu. Điều đó cho thấy có thể có sự đối
kháng giữa các tạp khuẩn tỵ hầu và các lọai nấm trong không khí.
Sự phân bố bào tử nấm mốc trong không khí ở nước ta đều có liên quan đến các
điều kiện lý học của không khí. Các lọai nấm thường gặp là Penicillium Roqueforti và
Aspergillus flavus. Sau đó đến A.Niger và Hormodendrum; Aspergillus được gặp tới 9

nhóm khác nhau, còn nấm Penicillium được gặp tới 11 nhóm khác nhau trong khí quyển
ở những vùng được khảo sát.
III. Ô nhiễm không khí về mặt hóa học
Các tác nhân hóa học gây ô nhiễm không khí có mặt ở khắp nơi. Các chất có nguồn
gốc tự nhiên gây ô nhiễm không khí hầu như hòan tòan không chịu sự kiểm sóat (do cháy
rừng, sấm chớp, núi lửa, phân hủy chất hữu cơ ). Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa
dạng, nhưng chủ yếu là do các hoạt động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và
hoạt động của các phương tiện giao thông vân tải.
Người ta đã xác định là sự đốt cháy nhiên liệu trong luyện kim và lò sưởi là nguyên
nhân chủ yếu gây tai nạn ô nhiễm không khí ở London năm 1952. Có một điều mà trước
đây người ta ít ngờ tới, đó là quá trình chuẩn bị thức ăn, đặc biệt là món ăn rán đòi hỏi
nhiệt độ cao, có thể phát sinh những hơi khí độc có hại trong nhà ở.
1. Ô nhiễm không khí gây kích thích

Mức độ phát sinh kích thích của hơi khí đến đường hô hấp trên, một phần phụ
thuộc vào sự hòa tan của chúng trong nước. Nếu các hơi khí này hòa tan tốt trong nước,
thì khi ta hít vào, chúng sẽ hòa tan trong phần chất lỏng của đường hô hấp trên và gây tác
động lên cơ quan này; ở đó biểu mô bền vững đối với tổn thương hơn là những phần nằm
ở sâu. Tuy nhiên, tính chất xâm nhập được vào sâu trong khí quản và phế quản lớn lại có
thể được hấp thụ bởi các khí dung, nếu đường kính của chúng nhỏ, lúc đó chúng sẽ xâm
nhập vào sâu hơn trong phổi đến tận các phế nang.
Thực tế là do nồng độ cao của những chất bẩn khi tác động phối hợp có thể gây ra
những biến chuyển sinh lý quan trọng. Do đó người ta đưa ra khái niệm về tác động thấy
được của các chất kích ở phổi. Theo sự phát sinh của chúng, tác động này không phải là
do nồng độ trung bình hàng ngày mà là do nồng độ cực đại của các hơi khí kích thích.
Những nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các hơi khí kích thích đối với phổi
người và động vật đã được chứng minh bằng những hậu quả nghiêm trọng do chúng gây
nên. Thực ra hiện nay chúng ta mới chỉ biết được một vài chất có thể coi là nguyên nhân
gây kích thích trong vô vàn những chất khác có trong không khí bị ô nhiễm.
1.1.SO

2

SO
2
có trong không khí của nhiều thành phố là do đốt cháy các nhiên liệu có chứa
S. Chất này chiếm một nồng độ cao trong không khí ở mỏ than, đặc biệt các lọai than xấu
và lọai dầu mazut. Những thí nghiệm đã chỉ ra là khi hít phải SO
2
thậm chí ở cả nồng độ
thấp vẫn có thể gây co thắt, gây ra tăng tiết chất nhầy ở thành đường hô hấp trên.

Trong một số trường hợp, liên quan một phần với bức xạ mặt trời, một phần với sự
có mặt đồng thời trong không khí của một vài chất xúc tác dưới dạng hợp chất kim lọai,
SO
2
được oxy hóa thành SO
3
tạo ra sương mù có tác động kích thích rất mạnh. Một phần
trong hai khí này (SO
2
và SO
3
) với sự có mặt của hơi nước (hay nước) sẽ tạo thành
H
2
SO
3
và H
2
SO

4
. SO
3
cũng được tạo thành khi đốt cháy nhiên liệu cùng với SO
2
. SO
3
cũng là hơi khí kích thích rất mạnh (đặc biệt mạnh hơn so với tác động của SO
2
; gây ra
co thắt phế quản mạnh, có khi chỉ ở nồng độ tương đối thấp). SO
2
được coi là chỉ điểm
đánh giá ô nhiễm không khí các khu công nghiệp.
1.2. Ozon
Ozon gây tác động kích thích đường hô hấp và xâm nhập sâu hơn vào trong phổi so
với SO
2
. Nguồn gốc của Ozon trong không khí gần mặt đất vẫn có những điểm chưa rõ.
Tuy nhiên nó có thể phát sinh do đốt cháy với bức xạ mặt trời. Những thí nghiệm trên
động vật cho thấy là khi hít phải Ozon với nồng độ thấp sẽ dẫn đến kết quả là sinh ra sức
đề kháng đối với tác động của ozon. Tuy vậy ở những con vật hít phải liều O
3
dưới nồng
độ gây chết trong 1 tháng, thành phế quản sẽ phát sinh tổ chức xơ. Ở người, khi hít phải
O
3
, có thể gặp vài dấu hiệu trong giai đọan đầu của viêm phế quản mạn tính. Ở nồng độ
cao, O
3

có thể gây phù phổi cấp.
2. Ô nhiễm không khí không kích thích
Những chất làm ô nhiễm không khí không gây kích thích, thường gây ảnh hưởng
đến cơ thể sau khi chúng được hấp thụ và tích trữ ở một nơi nào đó trong cơ thể. Mức độ
hấp thụ những chất bẩn không kích thích có thể tăng lên do có mặt đồng thời trong không

khí những chất nhiễm bẩn khác có tác động kích thích. Trong trường hợp có mặt những
chất gây ung thư trong không khí, tác động lên đường hô hấp, những tác nhân kích thích
có thể đủ mạnh để gây tê liệt biểu mô có nhung mao của phế quản, kéo dài thời gian tiếp
xúc của các chất gây ô nhiễm (trong đó có nhiều loại là tác nhân gây ung thư) lên lớp
biểu mô nhạy cảm với tác động trên hoặc làm cho các tác nhân gây bệnh ung thư tiếp xúc
chặt chẽ với những tế bào nằm ở sâu hơn, nhạy cảm với ung thư.
Những phần rắn và lỏng (khí dung) khuyếch tán lơ lững trong một thời gian có thể
xâm nhập vào cơ thể cùng với không khí hít vào. Từ trạng thái khí dung này, chỉ có
những phần tử có kích thước khỏang  1 mới có thể đến phế nang được. Sự giữ lại
những phần tử rắn và lỏng của khí dung phụ thuộc một phần vào tần số và biên độ hô hấp
cũng như phụ thuộc vào nồng độ tương đối của chất hít vào. Sự hấp thụ những phần tử
rắn từ phế nang vào máu tùy thuộc vào tính hòa tan của chúng vào dịch thể tổ chức bề
mặt của nhu mô phổi.
3. Ô nhiễm không khí gây tác động chung đến cơ thể
Thuộc nhóm này có nhiều loại, trong số đó thường gặp là : berilli, mangan, oxyd
carbon, các chất đồng vị phóng xạ, các chất gây ung thư và thuốc trừ sâu.
3.1.Berilli
Trong 30 năm gần đây, berilli đã được sử dụng khá rộng rãi. Sự nhiễm bẩn không
khí của kim lọai này gây ra ở các xí nghiệp liên hợp luyện kim, các xí nghiệp sản xuất
đèn điện hoặc quá trình sản xuất có liên quan tới việc sử dụng năng lượng nguyên tử. Có

những hình thức nhiễm độc cấp tính berilli trong vùng gần nguồn thải hoặc có những
hình thức nhiễm độc mãn tính.
3.2. Mangan

Chính chất thải của xí nghiệp công nghiệp (sản xuất sắt thép, nấu sắt, mangan, làm
pin khô, sản xuất hóa chất ) là nguồn ô nhiễm không khí. Ngòai ra mangan còn được
đưa vào không khí do đốt than và các sản phẩm dầu hỏa. Phụ gia của nhiên liệu dùng làm
chất chống nổ và các chất làm giảm khói cũng là những nguồn phụ đưa mangan vào khí
quyển. Khi làm ô nhiễm không khí, mangan đã gây ra tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi cao trong
dân cư vùng công nghiệp.
3.3. Oxyd carbon
Oxyd carbon không kích thích và không gây thương tổn niêm mạc, do đó giác quan
ít phát hiện ra khí này. Nó gây độc bằng cách tạo nên một hợp chất bền vững với
hemoglobin. Sự kết hợp chặt chẽ của CO với một số lượng lớn Hb (có khả năng kết hợp
với oxy) dẫn đến làm giảm Hb và từ đó làm giảm cung cấp O
2
cho tổ chức của cơ
thể.Ngoài ra, CO khi vào cơ thể , còn có khả năng gây bất hoạt các coenzym có
Fe++.Nồng độ tối đa cho phép của CO là 100ppm
Khi nói tới sự nguy hiểm của CO về nhiễm bẩn không khí điểm dân cư cũng như về
giao thông vận tải (nguồn gốc chủ yếu sinh ra CO) , ta không thể không nói tới sự nguy
hiểm của nhiễm độc chì do khí đốt cháy các lọai xăng có chì vào không khí (chứa 0,8
ml/l tetraetyl). Từ năm 2001, Việt nam đã nhập và cho áp dụng rộng rãi sử dụng xăng
không pha chì là một cố gắng trong việc phòng chống ô nhiễm không khí.

3.4. Hợp chất fluor
Nguồn đưa fluor vào khí quyển là quá trình đốt nhiên liệu, thí dụ hàm lượng fluor
trong than Ân độ là 10 - 20g/ tấn.
Người ta thông báo về những trường hợp có vết đen ở men răng và tỷ lệ thấp những
người mắc bệnh sâu răng trong một số vùng có chất thải của xí nghiệp nhôm Các hợp
chất của fluor có phản ứng cao, có thể gây tổn thương phần hở của cơ thể (da và một số
niêm mạc) nếu nồng độ của nó trong không khí đủ lớn.
3.5. Các thuốc trừ sâu diệt cỏ
Các điều kiện khí tượng có ảnh hưởng quan trọng tới sự phân bố nồng độ các chất

này trong không khí. Các yếu tố như: khoảng cách tới nơi sử dụng, thời gian sử dụng,
khối lượng sử dụng liên quan mật thiết tới nồng độ của các chất TSDC. Không khí có
vai trò quan trọng trong việc vận chuyển các chất TSDC từ vùng này sang vùng khác trên
phạm vi rộng lớn.
3.6. Hydrocarbua thơm đa vòng
Các hợp chất hữu cơ đa vòng 3,4 benzopiren, là tác nhân gây ung thư trên động vật
thực nghiệm và được coi là tiêu chuẩn để so sánh tính gây ung thư của các tác nhân hóa
học khác mà người ta tìm thấy trong không khí của nhiều vùng dân cư.
Trong không khí còn tìm thấy những hợp chất hữu cơ khác có tính gây ung thư.
Thực nghiệm cho thấy là một lượng lớn chất 3,4 benzopiren và những hợp chất đa vòng

tương tự, được tạo thành khi đốt cháy không hòan tòan những hydrocarbua đơn giản và
những mạch ngắn không chia nhánh.
3.7. Chất đồng vị phóng xạ
Khi thảo luận về vấn đề ô nhiễm phóng xạ không khí, ta chỉ giới hạn trên những
chất phóng xạ có thể có trong không khí dưới dạng khí và khí dung, hạt ά , β, tia γ, trung
điện tử và các lượng tử khác có năng lượng lớn.
Sau đây là một vài nguồn ô nhiễm phóng xạ không khí:
- Lấy đi rất nhiều các lớp đất bên trên và các lớp bao phủ các quặng tự nhiên (các
chất phóng xạ).
- Các khí dung phóng xạ rơi xuống từ các lớp trên của khí quyển do các vụ nổ của
vũ khí hạt nhân (mưa phóng xạ)
- Sử dụng đồng vị phóng xạ vào mục đích điều trị và các mục đích nghiên cứu khoa
học.
- Sử dụng đồng vị phóng xạ làm nguyên tử đánh dấu trong nông nghiệp và công
nghiệp.
IV. Biện pháp phòng chống ô nhiễm không khí
Để đảm bảo sự trong sạch cho không khí trong thành phố, cần áp dụng các biện
pháp tổng hợp sau đây:
1. Biện pháp kỹ thuật

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×