Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

TẢN ĐÀ – KIỂU NHÀ THƠ GIAO THỜI_1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.67 KB, 7 trang )

TẢN ĐÀ – KIỂU NHÀ THƠ GIAO THỜI


I. Tiểu sử và con người

Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 25-5-1889 (20 tháng 4
năm Kỷ sửu, Thành Thái nguyên niên) tại làng Khê thượng, huyện Bất
bạt, tỉnh Sơn tây nay là thôn Khê thượng, xã Sơn đà, huyện Ba vì - Hà
tây. Nguyên quán của Tản Đà ở làng Lủ (tức Kim Lũ) huyện Thanh trì -
Hà Nội.

Dòng họ của Tản Đà có truyền thống khoa bảng. Thân phụ của ông -
Nguyễn Danh Kế đỗ cử nhân, làm quan đến chức Án sát Ninh bình. Anh
ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng,
làm tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan giữ chức Giáo thụ.

Mẹ Tản Đà là Nhữ Thị Nghiêm, một đào hát tài sắc Nam định, lấy lẽ
Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay
và có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trái út của cuộc lương duyên giữa
tài tử và giai nhân này.

Cuộc đời của Tản Đà trải nhiều khóc cười. Lên 3 tuổi, bố mất. Năm sau,
vì bất hòa với gia đình chồng, bà Nhữ Thị Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca
xướng. Mặc dù ngay từ khi 15 tuổi đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh
Sơn tây nhưng Tản Đà liên tiếp trượt cả hai kỳ thi hương 1909 và 1912.
Cũng mùa xuân năm 1912, ông không qua được kỳ thi vào trường Hậu
bổ vì trượt môn vấn đáp tiếng Pháp. Thất bại trong khoa cử gắn liền với
đổ vỡ trong tình duyên đã khiến cuộc đời Tản Đà rẽ sang một ngả khác.

Năm 1915, Tản Đà có tác phẩm đăng trên Đông dương tạp chí của
Nguyễn Văn Vĩnh và nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn.


Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường của
một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Từ 1916 đến 1926 là những
năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Ông liên tiếp cho xuất bản các tác
phẩm: Khối tình con I(1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II
(1918), Đài gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu (1919), Lên tám
(1920), Còn chơi (1921), Tản Đà tùng văn (1922), Thề non nước (1922),
Truyện thế gian I và II (1923), nhuận sắc Truyện Tỳ bà (tuồng) của
Đoàn Tự Thuật và dịch Đại học (1922), Kinh thi (1924).

Từ năm 1926 đến 1933 ngoài việc xuất bản một số tác phẩm: Giấc mộng
con II, Giấc mộng lớn (1932) và in lại thơ văn cũ Tản Đà bỏ hết tâm sức
vào việc làm báo với kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương “có bóng
mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu của nhà Nho Tản Đà với môi
trường đô thị bắt đầu bộc lộ rõ rệt. Tờ An nam tạp chí, bất chấp những
tâm huyết của ông chủ báo ngất ngưởng, liên tục bị đình bản vì lý do tài
chính và đến năm 1933 (sau 6 lần tái bản rồi đình bản) thì đình bản hẳn.
Lần vấp ngã này khiến Tản Đà thực sự chán nản và sự nghiệp của ông
cũng đi vào giai đoạn thoái trào. Từ 1933 cho đến những ngày cuối đời
Tản Đà làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch
Liêu trai, quảng cáo chữa văn, xem số Hà lạc Cũng vì sinh kế mà Tản
Đà phải trôi dạt nhiều nơi: vào Nam, ra Hà nội, về quê, ra Quảng Yên
rồi lại về Hà Đông. Ông mất tại Ngã tư Sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939,
trong cảnh bần bách, để lại vợ và đàn con mà theo lời thuật của Nguyễn
Tuân “vừa yếu lại vừa đuối”.

Cuộc đời của Tản Đà, như thế, dù có những năm tháng đắc ý nhưng nhìn
chung là bất như ý và nhiều đổ vỡ. Điều này khiến Tản Đà (vốn đầy tự
tín, ngông nghênh) phải đối diện với một cảm nhận không ít mệt mỏi,
chua xót: “Mỗi một phen ra đời lại một phen thất bại; mỗi một phen thất
bại, đầu tóc lại bạc thêm” (Giấc mộng lớn). Nỗi sầu bàng bạc trong thơ

văn Tản Đà một phần đến từ những trải nghiệm rất thực này.

Tuy nhiên, dù phân nửa cuộc đời sau này gắn bó với môi trường đô thị
và tập nhiễm không ít lối sống thị dân thì về cơ bản cốt cách của một
nhà Nho tài tử vẫn rất đậm nét trong con người Tản Đà. Trong một xã
hội mà người ta đã học và làm quen được với sự sùng bái đồng tiền Tản
Đà trước sau vẫn chọn lối ứng xử của một khách chơi, một bậc trượng
phu đầy hào sảng, phóng túng: Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi / Bán
áo mà mua giấy viết ngông (Dạm bán áo đoạn), Bạc tiền gió thoảng thơ
đầy túi / Danh lợi bèo trôi, rượu nặng nai (Tự vịnh). Hoàn toàn không có
sự khác biệt giữa hình ảnh Tản Đà trong những câu thơ trên và Tản Đà
ngoài đời. Sự thống nhất ấy đã khiến Tản Đà, trong mắt của người
đương thời và đặc biệt của những kẻ hậu sinh, trở thành bậc trích tiên.
Vô số những giai thoại về Tản Đà đều xoay quanh cái cốt cách khác
thường này của ông. Cùng với thơ ca, con người thực của Tản Đà thực
sự là một niềm say mê, ngưỡng mộ của nhiều thế hệ. Thậm chí ngay cả
khi những sáng tác của ông không còn sự hấp dẫn như buổi đầu xuất
hiện thì sự hấp dẫn đến từ con người thực của Tản Đà vẫn không hề
giảm sút. Cá tính độc đáo của Tản Đà còn tiếp tục vang bóng trong
những giai thoại về Nguyễn Tuân (người bạn vong niên mà sinh thời
Tản Đà vốn có biệt nhãn) và nó khiến cho Lưu Trọng Lư dù có lúc
không ưa gì cái Tôi kềnh càng của Tản Đà trong đời thực vẫn phải thừa
nhận: “con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt xảo,
một bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà”.


II. Kiểu nhà thơ giao thời: từ nhà Nho trở thành người sáng tác
chuyên nghiệp và quan niệm về văn học của Tản Đà.

1. Thừa hưởng truyền thống của gia đình, Tản Đà ngay từ nhỏ, đã được

rèn cặp theo lối học cử tử mà người thầy cũng đồng thời là người anh
ruột - phó bảng Nguyễn Tái Tích. Ảnh hưởng của Nho giáo với Tản Đà,
như thế, là một ảnh hưởng từ rất sớm và cũng rất tự nhiên như một nét
của gia phong. Chính vì thế, Tản Đà vào đời theo một lộ trình đã định
trước và cũng khá quen thuộc với một nhà Nho: học hành - đi thi - làm
quan (trước để nối nghiệp nhà và với Tản Đà còn có thêm một mục đích
rất dễ thương: có được người đẹp trong mộng). Chuyện trở thành nhà
văn nhà báo chuyên nghiệp sau này trong cảm nhận của Tản Đà là một
sự lỡ dở: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang / Nôm na phá nghiệp kiếm ăn
xoàng (Đề “Khối tình con” thứ nhất.

Thực tế này lý giải vì sao: trước năm 1913 không thấy phát lộ một khả
năng cũng như thiên hướng đặc biệt nào của Tản Đà về lĩnh vực sáng tác
văn chương nghệ thuật. Vốn liếng của Tản Đà thời kỳ này dù có xuất sắc
hơn người thì chủ yếu vẫn chỉ là chuyện chữ nghĩa đóng khung trong
sách vở thánh hiền.

Hiểu thế, mới có thể lý giải được vì sao việc hỏng thi Hương năm 1912
lại khiến Tản Đà chán nản, bi phẫn đến như thế. Ở thời gian này, lối học
thi cử truyền thống đã đến hồi kết. Ba năm sau, năm 1915, sẽ là khoa thi
chữ Hán cuối cùng ở miền Bắc. Trước Tản Đà không lâu, dù cay cú, dù
than thở thì Tú Xương vẫn có thể trọn đời theo nghiệp khoa cử. Đến Tản
Đà, sự phá sản của lối vào đời truyền thống ấy đã trở thành hiện thực
nhãn tiền. Nhà Nho Tản Đà không còn đủ tự tin, cơ bản hơn, cũng
không còn đủ cơ hội để đánh cược vào khoa cử. Bị trượt ra khỏi quỹ đạo
truyền thống, hoàn toàn mất phương hướng trong hành xử đấy mới chính
là nguyên nhân sâu xa gây ra sự chán nản đến độ “quyết mong tịch cốc
để từ trần” ở Tản Đà - mà sự kiện “ý trung nhân xuất giá” chỉ là một giọt
nước tràn ly.


1.2 Chính ở thời điểm này, sáng tác văn chương xuất hiện như một
phương thức để giải tỏa. Những sáng tác này sau đó sẽ được in ở hai
quyển Khối tình và Khối tình con thứ nhất nhưng như Tản Đà đã thuật
lại rất rõ: “trong khi đương viết ở Cổ đằng, thực chưa có bụng nào viết
văn để in vậy”. Tản Đà chỉ thực sự lựa chọn con đường của một người
kiếm sống bằng ngòi bút vào năm 1916. Đây là năm ông lấy bút hiệu
Tản Đà. Đặc biệt cũng trong năm này ông từ chối lời mời vào học mà
không phải qua thi tuyển của E.Vayrac giám đốc trường Hậu bổ. Ở điểm
xuất phát không được chuẩn bị và cũng không hề có ý định để trở thành
nhà văn chuyên nghiệp, đến với nghề văn khá muộn nhưng lại rất cương
quyết và triệt để trong toàn bộ quãng đời còn lại. Những nguyên nhân
nào đã làm nên sự biến đổi đặc biệt quan trọng này ở nhà Nho Tản Đà?

Trong nhận thức mang tính tiên nghiệm của nhà Nho có ba điều cũng là
ba lĩnh vực để có thể lưu danh thiên cổ (tam bất hủ): lập đức, lập công
và lập ngôn. Mãi cho đến cuối đời, Phan Bội Châu vẫn nhắc lại tiên đề
này. Sự tán thưởng với quan điểm lập thân này cũng được Tản Đà công
khai bày tỏ: “Đã gọi là thằng người phải có một cái hơn con vật. Hoặc là
cái đức hay, hoặc là cái việc hay, hoặc là câu nói hay” (An nam tạp chí -
số 8). Cốt cách tài tử lại thêm những pha tạp của lối sống thị dân khiến
Tản Đà không bị hấp dẫn bởi những khuôn mẫu của một nhà đạo đức. Ở
vào một thời đại mà văn minh phương Tây đã chứng tỏ sự ưu việt hơn
hẳn của nó thì ngả rẽ kỳ vọng vào một sự nghiệp kinh bang tế thế cũng
trở nên mù mịt đối với một nhà Nho phải “phá nghiệp kiếm ăn xoàng”
như Tản Đà. Chỉ còn một mảnh đất cuối cùng: mảnh đất của “lời nói
hay” (lập ngôn) để Tản Đà có thể thi thố với đời. Có không ít những
nguyên cớ chủ quan và khách quan khuyến khích Tản Đà theo ngả rẽ
này. Từ sau những năm 1910, trên cơ sở của môi trường đô thị hiện đại,
viết văn làm báo đã trở thành một nghề. Tiếp sau những tờ công báo là
sự ra đời của báo chí tư nhân đáp ứng những nhu cầu và thị hiếu mới của

tầng lớp thị dân đang ngày một trở nên đông đảo. Danh phận của người
viết văn làm báo được thừa nhận và xem trọng. Đây là cơ sở để Phạm
Quỳnh có thể tự tin và hào hứng tuyên truyền cho luận điểm: “Các nước
Âu Mỹ trọng các nhà văn sĩ hơn các bậc đế vương vì cái công nghiệp
tinh thần còn có giá trị quý báu và ảnh hưởng sâu xa hơn là những sự
nghiệp nhất thời về mặt chính trị” . Cái không khí mới mẻ của thời cuộc
ấy không phải là không có sức hấp dẫn.

×