Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIẾM MUỘN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CÁC CẶP VỢ CHỒNG potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.72 KB, 4 trang )

3
YHSS
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIẾM MUỘN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CÁC CẶP VỢ CHỒNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
H
iếm muộn (HM) là một vấn đề quy
mơ tồn cầu. Theo Tổ chức Y tế Thế
Giới, ước tính khoảng 8 – 12% các cặp vợ
chồng trên thế giới gặp khó khăn trong việc
có con (WHO,1991). Do vấn đề thừa dân
số tại các nước đang phát triển, vấn đề
sinh sản q mức được chú trọng hơn HM
trong chương trình sinh đẻ có kế hoạch.
Tuy nhiên, trong văn hố phương Đơng khả
năng sinh đẻ là một trong những yếu tố có
giá trị cao nhất. Nhiều gia đình phụ thuộc
vào sự giúp đỡ về kinh tế của con cái, đặc
biệt khi về già. Do vậy, sự khủng hoảng
tâm lý có thể xảy ra khi vợ chồng bị HM.
Trên những nghiên cứu thực hiện tại miền
Bắc, đối với người Việt Nam, gia đình là
đơn vị quan trọng nhất và được xem như
một xã hội nhỏ. Đối với phụ nữ, có con liên
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA
HIẾM MUỘN ĐỐI VỚI
CÁC CẶP V CHỒNG TẠI
MIỀN NAM VIỆT NAM
Drukker A.J, Wieserma N.J., Mai Bá Tiến Dũng,
Giang Huỳnh Như,
Nguyễn Thành Như, Lambalk CB.
YHSS


4
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIẾM MUỘN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CÁC CẶP VỢ CHỒNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM
quan tới sự ổn định hạnh phúc gia đình
và tạo dựng quan hệ mật thiết hơn với gia
đình chồng. Đặc biệt, các con dâu trưởng
rất mong muốn có đứa con đầu tiên, một
năm sau cưới, để đề cao khả năng sinh
đẻ của họ. Họ cảm thấy bị áp lực từ cha
mẹ chồng trong việc sinh một cháu trai để
nối dõi. Ở Việt Nam, các ảnh hưởng của
HM lên các cặp vợ chồng còn ít được biết
đến.
Qua nghiên cứu do Drukker A.J và
Wieserma N.J. tiến hành với sự cộng tác
của các bác sĩ Mai Bá Tiến Dũng, Giang
Huỳnh Như, Nguyễn Thành Như, thực
hiện trên các cặp vợ chồng HM đến khám
tại Bệnh viện Bình Dân và bệnh viện Từ
Dũ ở thành phố Hồ Chí Minh, trong thời
gian từ 07/2005 đến 10/2005, dưới dạng
bản câu hỏi và bản đánh giá tâm lý PET
(Psychological Evaluation Test), và phỏng
vấn trực tiếp, các tác giả đã rút ra những
kết quả và kết luận dưới đây.
CÁC KẾT QUẢ
Có 118 cặp vợ chồng (236 người tham
dự) trả lời bản câu hỏi. Tuổi trung bình của
chồng là 32,24 ± 5,4 tuổi, và vợ là 29,11 ±
5,1 tuổi. Tất cả các cặp vợ chồng đều là
HM nguyên phát, đang sống tại Miền Nam

(41,5% sống tại TP.Hồ Chí Minh).
Bản PET bao gồm 15 câu hỏi khảo sát các
phản ứng tình cảm về các căng thẳng do
HM gây ra. Các câu trả lời được chia làm
4 mức độ dựa trên tần suất (1 = không bao
giờ/hiếm khi; 2 = thỉnh thoảng; 3 = thường
xuyên; 4 = luôn luôn). Một thang điểm PET
> 30 điểm được định nghĩa ngưỡng của
những trường hợp cần sự giúp đỡ về tâm
lý. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê được tìm thấy giữa điểm trung bình PET
của chồng (27,38 ± 7,1) và vợ (27,92 ± 7,3).
Trong khi đó, hầu hết các nghiên cứu khác
đều đồng ý rằng HM gây căng thẳng cho
phụ nữ hơn nam giới, điểm PET cho người
phụ nữ thường cao hơn người đàn ông.
Ngoài ra, qua nghiên cứu, thang điểm PET
> 30 chiếm 30,9% các người tham gia. Như
vậy, gần 1/3 cặp vợ chồng cần sự giúp đỡ
tâm lý. Sự cần thiết tương đương ở cả
chồng lẫn vợ cho dù nguyên nhân HM là gì.
Đáng tiếc, sự hỗ trợ về tâm lý không nằm
trong quá trình điều trị HM ở Việt nam.
Câu hỏi “Bạn có lo sợ về tương lai khi không
có con ?” tìm thấy 49% trả lời của kiểu tần
số cao (điểm 3 hoặc điểm 4). Không có sự
khác biệt được tìm thấy giữa người chồng
và người vợ. Câu hỏi “Bạn có quan tâm
đến vấn đề sinh sản hỗ trợ ?”, câu trả lời
“có” được tìm thấy trong 67% các cặp vợ

chồng và 5% không có ý kiến. Lý do không
có sự quan tâm đến hỗ trợ sinh sản là chi
phí điều trị cao.
Vấn đề xin con nuôi chỉ được quan tâm
ở 18% các cặp vợ chồng, 6% không có ý
kiến và 76% với câu trả lời không. Lý do
biện minh là “tôi muốn có con của tôi” hoặc
“một đứa con nuôi không phải là một đứa
con sinh học”. Không có sự khác biệt về
5
YHSS
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIẾM MUỘN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CÁC CẶP VỢ CHỒNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM
thái độ xin con nuôi và hỗ trợ sinh sản giữa
chồng và vợ.
95% cặp xem vấn đề có con như là một
biện pháp an toàn cho tuổi già. Phụ thuộc
vào con, sự vững bền tương lai và sự chăm
sóc của con cái đối với cha mẹ là lời giải
thích cho câu hỏi này.
12% cặp thích con trai, 2,5% thích con gái
và 77,5% không có sự chọn lựa. Như vậy,
mặc dù rất quan trọng ở xã hội Việt nam,
đa số những người tham gia phỏng vấn
không quan tâm sự lựa chọn con trai, họ
chỉ ao ước có một đứa con khỏe mạnh.
28 cuộc phỏng vấn được thực hiện. Tuổi
trung bình của người chồng là 35,9 (29-
45). Tuổi trung bình của người vợ là 27 tuổi
(22-33). Tất cả các người tham dự phỏng
vấn đều đã kết hôn và sống tại miền Nam.

Về động cơ có con, các cặp vợ chồng giải
thích rằng có con rất quan trọng cho việc
ổn định hạnh phúc hôn nhân và mang đến
niềm vui trong cuộc sống gia đình, nối dõi
gia đình và cho cuộc sống về già của họ.
Cuộc phỏng vấn đã cho thấy động lực có
con của người phụ nữ ở miền Nam tương
tự như phụ nữ ở miền Bắc Việt Nam. Niềm
đau, mặc cảm, cô đơn và sợ hãi về vấn
đề tương lai không ổn định được thường
xuyên mô tả bởi cả người chồng lẫn người
vợ. Những cuộc hội họp gia đình – chẳng
hạn trong ngày Tết cổ truyền -, sinh nhật
trẻ con và những đề tài liên quan đến trẻ
em gợi nhớ những người tham dự phỏng
vấn về việc không có con và làm họ đau
buồn. Họ đối phó với cảm giác này bằng
hai cách khác nhau: tránh xa và đối đầu.
Một vài người, chủ yếu là phụ nữ, ở nhà
thường xuyên để tránh xa những cuộc hội
họp có trẻ con, một số khác ra khỏi nhà và
chăm sóc những đứa cháu trai cháu gái,
con đỡ đầu hoặc những đứa con của hàng
xóm. Dù sao, tất cả người tham dự phỏng
vấn, trừ một người, đều tin tưởng mãnh liệt
vào kỹ thuật y khoa và họ rất lạc quan về
cơ hội có con trong tương lai.
Về đời sống hôn nhân, hầu hết tất cả các
người chồng và người vợ đều muốn cùng
giải quyết vấn đề và cho dù không có con

họ vẫn sống với nhau. Áp lực gia đình chủ
yếu ở con trai cả và con dâu, bị thúc ép
có con càng sớm càng tốt để nối dõi tông
đường. Tuy nhiên, về mặt xã hội, không
có người nào cảm thấy bị cô lập hoặc bị
phân biệt đối xử vì họ không có con. Họ
vẫn được mời đến dự các buổi tiệc sinh
nhật, các hoạt động xã hội với bạn bè,
đồng nghiệp và hàng xóm.
Về vấn đề giới tính của con, hầu hết trả
lời “niềm ao ước của tôi là có đứa con khỏe
mạnh của chính bản thân mình, không phân
biệt trai hay gái”. Về vấn đề hỗ trợ sinh
sản, xin con nuôi hoặc xin tinh trùng,
không ai trong số những người tham dự
buổi phỏng vấn có tín ngưỡng hoặc văn
hóa chống lại sự sinh sản hỗ trợ như IUI,
IVF, ICSI. Xin con nuôi không phải là một
sự lựa chọn ưa thích vì đứa con không
được sinh ra bởi dòng máu của họ.
YHSS
6
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HIẾM MUỘN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CÁC CẶP VỢ CHỒNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Abdallah S, Daar ZM. (2001). Infertility and social suffering: the case of ART in developing eountries. Sect 1,
Infertility and assisted reproductive technologies in the developing world. In: Current Practices and Controversy in
Assisted Reproduction: Report of a meeting on “Medical, Ethical and Social Aspects of Assisted Reproduction” WHO
Headquarters, Geneva, Switzerland, 17-21 September 2001. p. 15-21.
 Belanger D. (2002). Son preference in a rural village in North Vietnam. Stud Fam Plann. Dec; 33(4): 321-34
 Bich P van. (1999). Reproduction and its Socio-cultural Meanings. In: Bich P van, The Vietnamese family in change:

the case of the Red River Delta. Surrey: Curzon Press; 1999, p. 181-251.
 Boonmongkon P. Family networks and support to infertile people. In: Current Practices and Controversies in
Assisted Reproduction: Report of a meeting on “Medical, Ethical and Social Aspects of Assisted Reproduction”
WHO Headquarters, Geneva, Switzerland, 17-21 September 2001. p. 281-286.
 Connoly KJ, Edelmann RJ, Cooke ID, Robson J. (1992). The impact of infertility on psychological functioning.
Journal of Psychosomatic Research 36, 459-468.
Tương tự với vấn đề xin tinh trùng, mặc dù
vài người dự tính xin tinh trùng của người
anh hay em trai.
Về mặt ảnh hưởng của kinh tế lên việc
HM, chỉ một thiểu số những người được
phỏng vấn tự chi trả được kinh phí điều trị
HM bằng thụ tinh trong ống nghiệm. Hầu
hết phải làm việc nhiều hơn và/hoặc vay
mượn để trang trải việc điều trị. Các cặp vợ
chồng có niềm tin mãnh liệt vào kỹ thuật y
khoa. Tuy nhiên, phí điều trị khá cao so với
thu nhập bình quân. Kết quả, họ phải giảm
chi phí cá nhân và tiết kiệm tiền cho việc
điều trị HM. Gia đình đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc thanh toán chi phí.
Cha mẹ chồng hoặc vợ có dư dả tài chánh
thường hỗ trợ chi phí điều trị. Sự khó khăn
về kinh tế là một yếu tố lo âu đặc biệt cho
các cặp vợ chồng HM.
Kết luận, nghiên cứu này cho thấy ảnh
hưởng của gia đình đóng một vai trò quan
trọng trong vấn đề HM, các hậu quả của
kinh tế trên đời sống các cặp vợ chồng
không nên xem thường và cần có tư vấn

về tâm lý và sự hỗ trợ về tinh thần trong
chương trình điều trị HM tại Việt Nam.

×