Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Lịch sử cuộc viễn chinh nam kỳ năm 1861 - CHƯƠNG I pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.83 KB, 30 trang )

Lịch sử cuộc viễn chinh nam kỳ năm 1861
CHƯƠNG I
Đề cương:


Ngưng chiến ở Bắc Kinh giúp các lực lượng Pháp
rảnh tay - Phó thủy sư đề đốc Charner được Hoàng
Đế đề cử thống lãnh viễn chinh Nam Kỳ - Các lực
lượng viễn chinh tổ chức trở lại, rời nước đến Sài
Gòn trong những ngày đầu tháng hai 1861

Hoàng đế Hien - fung bất thần đào tẩu về Zhe-hol nơi
tận cùng xứ Mãn Châu làm quân đồng minh hết hy
vọng thương thuyết với Thiên quốc. Quyết định cực
đoan của hoàng đế nước Tàu gây ra mối hiểm nguy
lớn nhất cho việc tiến quân của lực lượng đồng minh
lúc bấy giờ. Tương lai cho thấy nhiều điềm xấu và tối
tăm: Quân đồng minh đang lâm vào cuộc chiến man
rợ, kéo dài, nhưng muốn chấm dứt trong danh dự
cũng thật khó khăn. Mùa đông đã báo hiệu và mọi
người đều biết sẽ vô cùng gay go trên đất Tàu, buộc
ta phải chọn 1 quyết định. Lực lượng đồng minh vì
thế buộc phải rút lui, đóng quân chặt chẽ tại Tien-
tsin, thiết lập liên lạc với căn cứ hành quân trên bờ
biển qua các ngõ Tien-kou, Sing-ko, Takou. Lực
lượng Hải quân cũng bắt buộc phải chuẩn bị theo để
gánh chịu mùa đông.

Bộ mặt mới của tất cả mọi việc sẽ phải thay đổi hết,
tùy thuộc vào những yếu tố mới, tức việc tiếp xúc với
Hoàng tử Kong, từ tính tình, vị thế vương quyền của


ông ta cho đến kết quả trung gian của 1 lực lượng
Châu Âu liên hệ thân hữu từ lâu với nước Tàu (Tức
là nước Nga - ND). Ngày 25 tháng 10 năm 1860,
nam tước Gros, huân tước Elgin và Hoàng tử Kong
cùng ký 1 hiệp ước hòa bình. Hiệp ước thành công
nhờ sự dàn xếp của đại tướng Ignatieff. Nhờ vậy tình
trạng tháo mở, quân đội của 2 cường quốc được giải
tỏa (Nước Anh và nước Pháp liên kết đi đánh Tàu -
ND). Lực lượng hải quân và 1 phần đội quân viễn
chinh của ta được rảnh tay để kéo xuống đập vào
Nam Kỳ (An Nam) với mục đích củng cố vị thế
thống lãnh của Pháp ở phần đất Châu Á này.

Hoàng đế (Tức Nã phá Luân đệ tam - ND) giao phó
việc chỉ huy viễn chinh cho Phó đề đốc Hải quân
Charner. Phó đề đốc Charner liền tổ chức lại lực
lượng hải quân do chính ông làm chỉ huy trưởng từ
lúc mới khởi đầu cuộc chiến tranh với Tàu. Ông
thành lập 2 sư đoàn lớn. Sư đoàn thứ nhất gọi là sư
đoàn Tàu, lo việc bảo vệ và canh giữ Ta-kou, Tche-
fou, Thượng Hải, luôn cả các hòn đảo Chu-san và
Nhật Bản; ông sai Chuẩn đề đốc hải quân Protet
thống lãnh sư đoàn này. Ông quyết định là các chiến
thuyền thuộc sư đoàn Tàu phải thật linh động, di
chuyển ngắn hạn ở Nhật, cốt để phô trương khả năng
về phương tiện mạnh mẽ mà nước Pháp có sẵn tại các
vùng biển này. Mặc dù đóng ở xa mặt trận đang được
chuẩn bị là Nam Kỳ, vị thế của đơn vị thuộc miền
Bắc nước Tàu thật quan trọng vì giữ nhiều trọng
trách như: canh chừng Nhật Bản; khống chế bọn nổi

loạn trong các xí nghiệp kinh doanh ở Thượng Hải và
NingPo; nuôi đạo quân viễn chinh và hồi hương quân
lính; ngoài ra còn phải bảo vệ hiệp ước vừa ký mà sự
thực thi chưa chắc được bảo đảm; việc duy trì đường
dây liên lạc giữa Ta-kou và Tche-fou. Sư đoàn thứ
hai dùng để hành quân ở Nam Kỳ. Vị tổng tư lệnh chỉ
định Chuẩn đề đốc Page trực tiếp chỉ huy sư đoàn thứ
hai và đặt dưới sự chỉ đạo của chính mình. Hai khu
vực Hồng Kông và Canton tách ra khỏi trách nhiệm
chỉ huy của tổng hành dinh Sài Gòn.

Phó đề đốc Charner thân hành đến Tien-tsin để hội ý
với sứ thần các nước và các tướng lãnh đồng minh,
để biết những gì đã được quyết định liên hệ đến phía
Pháp.

Chiến hạm Duchayla giao cho nam tước Gros sử
dụng, ông này phải trở về Pháp sau khi sắp xếp cho
ông de Bourboulon đổi từ Thượng Hải đến nhậm
chức ở Bắc Kinh. Chiến hạm Duchayla trên đường về
sẽ ghé Hồng Kông, Manille và có thể cả Sài
Gòn.Chiến hạm Duchayla mang theo quân bổ sung
(Thật ra vào lúc đó, tình thế của đạo quân ở Sài Gòn
đã được cải thiện, nhưng vị chỉ huy trưởng Canton
buộc phải tuân lệnh của Tổng tư lệnh gửi đi từ tháng
7 năm 1860 bắt phải chuyển 1 đại đội bộ binh đến
Sài Gòn. Trong khi ấy trại quân Sài Gòn vừa được bổ
sung 100 thủy quân lục chiến do tàu Weser chở tới.
200 quân bổ sung khác sẽ còn được liên tục chở đến
sau - TG) cho trại binh Sài Gòn. Theo các tin tức mới

nhất thì quân trại Sài Gòn càng ngày càng thiếu nhân
lực, việc canh phòng khó khăn vì vòng đai phòng thủ
rộng. Đoàn quân đổ bộ trước kia đã tiến chung với
quân đồng minh vào Bắc Kinh được giải thể. Thủy
quân lục chiến cũng tách ra khỏi quân đoàn viễn
chinh trên đất Tàu để tăng cường một phần cho trại
quân Ta-kou; phần còn lại chuyển đến Canton, và sau
đó là Sài Gòn. Đại tướng Jamim cùng với Trung đoàn
bộ binh 101, Tiểu đoàn 2 bộ binh, một giàn pháo binh
12 khẩu, một giàn pháo binh 4 khẩu, một Đại đội
công binh và một nửa bộ phận hành chính được
chuyển về Thượng Hải. Đại tướng Collineau được
chỉ định chiếm đóng Tien-tsin với đoàn lục quân 102,
2 giàn pháo binh, 1 đại đội công binh, một số kỵ binh
và một nửa còn lại của bộ phận hành chính. Chiến
thuyền Forbin giao cho đại tướng Cousin-
Montauban, vì ông này muốn thanh tra vài nơi tại
Nhật Bản trước khi quay về Thượng Hải.

Việc điều động lực lượng vừa kể đột nhiên làm mất
tầm quan trọng chiến lược của Tche-fou. Trong suốt
cuộc viễn chinh Tàu, Tche-fou là kho lương chính
của quân đội. Nay kho lương này chỉ còn dùng để
tiếp tế cho các chiến hạm trong vùng, cho toán quân
phòng ngự địa phương và cho vùng sông Pei -ho khi
cần tới. Tuy vậy vị trí này còn giữ 1 tầm quan trọng
khác; trong thời gian mà vịnh Pe-tche-li và sông Pei-
ho bị đóng băng thì phải dùng ngõ Tche-fou để liên
lạc với Tien-tsin.


các vấn đề chi tiết được giải quyết giữa các chỉ huy
trưởng thuộc các Tổng tư lệnh Hải quân và quân đội.
Công cuộc chuyển quân lên tàu để trực chỉ Nam Kỳ
bắt đầu, mặc dù băng giá, xa bờ và bão tố.
__________________
Gió thổi gần như liên tục từ ngoài khơi vào; sóng
đứng trên đáy biển bùn, chuyển thành sóng đập, tạo
sình lầy gây thật nhiều trở ngại cho việc chuyển
quân; nếu sóng lăn và dài thì ít gây khó khăn hơn.
Khí lạnh đã bắt đầu gay gắt: dây thừng trên tàu đóng
đá và sàn tàu cũng đông đá trơn trợt; ban ngày cũng
thường đóng băng; ban đêm hàn thử biểu tuột xuống
đến mười hay mười hai độ dưới số không. Thủy thủ
đoàn của các pháo hạm lớn từ Nam Kỳ vừa đưa tới
đây, vì đã quá mệt mỏi sau hai năm chiến đấu dưới
khí hậu nhiệt đới, nên phải chịu kham khổ vô cùng.
Vào khoảng 20 tháng 11, nước đá bắt đầu bít sông
Pei-ho. Pháo hạm Alarme bị một cơn gió mạnh làm
mắc cạn trên bãi ngay phía trước Ta-kou, mất luôn
bánh lái và 1 phần đuôi tàu. Hộ tống hạm Alom-prah
gặp khó khăn vì chân vịt không sử dụng được. Pháo
hạm Fusée bị kẹt băng trên sông Pei-ho, sau cùng
nhờ 1 trận nước lũ bất ngờ mới thoát ra được, nhưng
khi ấy thì việc chuyển quân đã thực hiện xong, cả đạo
quân lên đường hết rồi.

Một phần quân số và hành trang được chuyển lên tàu
từ 1 địa điểm cách bờ 6 hải lý, vào đúng lúc cái lạnh
của mùa đông càng ngày càng mãnh liệt. Đây là cuộc
hành quân không chiến đấu khó khăn nhất mà hải

quân nước ta đã thực hiện. Cuộc chuyển quân đánh
dấu cuộc viễn chinh nước Tàu đã chấm dứt, chuyển
sang chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Nhưng
thật ra thì việc chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ được
điều động ở Sha-lui-tien cách Bắc Kinh 60 dặm và
cách Sài Gòn đến 800 dặm ( Mỗi dặm là 4.445km -
ND): các đoàn quân dùng cho chiến dịch Nam Kỳ
tiến về Sha-lui-tien, các pháo hạm bằng sắt cũng
được kéo về nơi này. Pháo hạm bằng sắt loại nhỏ hết
sức đắc dụng trong các trận chiến, đã góp công thật
đáng kể vào các trận đánh buộc các đồn bót trên sông
Pei-ho phải đầu hàng. Người ta thấy loại pháo hạm
này ngược xuôi không ngừng trên sông, chuyên chở
quân lính và tiếp liệu. Chúng hết sức hữu dụng ở bất
cứ loại công tác nào giao phó. Cách đóng các pháo
hạm bằng sắt vừa kể đâu có dự trù để dùng vào việc
chuyên chở giữa bến Sha-lui-tien và các chiến hạm ở
cửa sông Pei-ho; khoảng cách 6 hải lý, biển động,
sóng lắc, tàu chòng chành 1 cách đáng ngại. Máy tàu
không đủ mạnh để ngược sóng trong lúc gió mạnh,
nhưng lại là một phương tiện vô cùng quý giá giúp
cho người lính hải quân trên đường chiến đấu: Pháo
hạm đủ sức dùng làm tàu kéo, đôi khi cũng dùng để
chở nặng. Nhờ các tàu này mà việc chuyển quân hoàn
tất trong 20 ngày, mặc dù biển động, gió bão và trời
lạnh. Các tàu này đã giúp thật nhiều cho thủy thủ
đoàn khỏi ra tay chéo chống; thật ra thì thủy thủ đoàn
dù có bắt buộc chèo họ cũng không đủ sức. Ở Nam
Kỳ, nơi sông ngòi chằng chịt, vai trò của các pháo
hạm sẽ còn cần thiết hơn nữa; ta có thể đoán trước rồi

đây các tàu này sẽ là những phương tiện rất tốt vừa
để chiến đấu vừa để tiếp vận trong cuộc chiến ở Nam
Kỳ. Nhưng phải công nhận việc kéo những chiếc Sa-
lúp pháo hạm chạy bằng hơi nước, chỉ dự trù hoạt
động trong vùng nước êm, suốt 800 dăm đường biển
để đến Nam Kỳ, là 1 kinh nghiệm mới cho ngành hải
quân. Súng đại bác, đạn dược, lương thực trên sa-lúp
pháo hạm đều chuyển sang các tàu kéo. các khe 2 bên
vách tàu được bịt kín, than đem dôn về phía mũi tàu
để khi kéo thì đầu tàu khỏi bị ngóc cao quá độ. các
sa-lúp pháo hạm đã vượt qua khỏi mọi thử thách, chỉ
mất có 2 chiếc bị chìm trên đường đến Nam Kỳ.

Trong khi đó các tàu lớn lần lượt ra khơi sau khi
chuẩn bị xong. Tàu Saône chở cu li từ Canton. Tàu
Duchayla rời bến ngày 10 tháng 10 với nam tước
Gros; cột chính của tàu có treo cờ quốc gia kích
thước hình vuông có hình ngọn lửa (Đó là dấu hiệu
trọng vọng lớn lao, nhưng hơi khác với cờ của Tổng
tư lệnh trong hải quân, cũng gần giống như vậy - TG)
. Ngay ngày hôm sau, huân tước Elgin cũng đi Hồng
Kông. Ngày 1 tháng 12, tàu Nemesis ra khơi quay về
Pháp sau 5 năm hoạt động ở Tàu. Đã có bao nhiêu
người ra đi với chiếc tàu này mà từ nay sẽ không bao
giờ trở về nữa.
__________________
Suốt thời gian hoạt động vừa kể trên, tàu Nemesis đã
tham dự vào tất cả các cuộc hành quân đánh phá ở
Tàu và Nam Kỳ, sử dụng đại pháo và cả thủy thủ
đoàn của tàu để đổ bộ. các tàu Renommée, Monge,

Dryade, Dragonne, Forbin lần lượt ra khơi theo lịch
trình đã định trước. Các tàu này sẽ thượng cờ Pháp
khi đế Nagasaki và Yedo; phô trương thanh thế xong
thì trực chỉ Woo-sung hoặc Hồng Kông.

Ngày 5 tháng 12 năm 1860, các toán quân chuyển từ
Bắc Kinh, đúng ra phải đến đóng ở Thượng Hải, lại
đem lên tàu để đưa đi Nam Kỳ. Các tàu chiến cuối
cùng của Pháp trong vùng cũng nhổ neo rời bến trên
sông Pei-ho. Cửa sông hình phễu không thấy bờ bến
giống như ở giữa biển khơi, nước thì vàng khè vì phù
sa sông Pei-ho và sông Peh-tang; cuối vịnh Pe-tche-
li, mà người ta thường gọi sai là vũng tàu Sha-lui-
tien, và cả sông Pei-ho trở nên vắng tanh, thật hiu
quạnh sau khi hơn 400 tàu đã nhổ neo. Tàu
Impératrice-Eugénie kéo cờ hiệu của phó thủy sư đề
đốc Charner, Tàu Echo dùng làm tàu truyền lệnh, cả
hai lên đường đến Tche-fou, nơi đây chỉ cách Ta-kou
hơn 60 dặm. Hai tàu đã đến nơi chiều ngày 6 tháng
12. Sau khi sắp xếp chi tiết công việc tại đây xong,
Phó thủy sư đề đốc tổng tư lệnh cùng với hai tàu lại
lên đường ngày 7, đến Woo-sung tiền đồn của
Thượng Hải vào ngày 10 tháng 12. các chiến hạm
khác chậm trễ vì công tác cũng lần lượt tới nơi.

Chỉ huy trưởng viễn chinh là phó thủy sư đề đốc
Charner có toàn quyền gây chiến hay làm hòa với xứ
An Nam. Từ Thượng Hải, eo biển Sakhaline, biển
Nhật Bản cho đến eo biển Malacca và eo biển quần
đảo Sonde, suốt 1800 dặm, tất cả tàu bè trương cờ

Pháp phải chịu mệnh lệnh của ông. Trọng trách của
ông rất lớn: Vì tình trạng chiến tranh, vì cách xa mẫu
quốc, thêm việc nắm giữ hai trọng trách một lúc, vừa
là chỉ huy trưởng viễn chinh, vừa là sứ thần, thêm số
chiến thuyền quan trọng dưới quyền chỉ huy của
mình; tất cả các trách nhiệm hệ trọng đó đã góp phần
làm chói lòa thanh danh của Phó đề đốc. Chính đây là
sự ủy quyền rộng rãi nhất từ thời Đệ nhất đế chế (Là
chế độ chính trị Pháp từ tháng 5 năm 1804 đến tháng
4 năm 1814, Nã Phá Luân đệ Nhất làm Hoàng Đế -
ND) giao cho một vị tướng lãnh Hải quân.

Quyền chỉ huy của ông bao trùm một hải đội hơn 60
chiếc, gồm 1 tàu chuyên chở có tải trọng nặng, 2 tàu
chiến đấu loại một chạy bằng chân vịt, 5 tàu chiến
đấu loại một chạy bằng buồm, 1 đại đội pháo hạm
chạy chân vịt trang bị đại bác, 2 đại pháo hạm chạy
chân vịt trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống
hạm loại hai chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại một
chạy bánh xe, 5 tàu hộ tống nhẹ chạy bánh xe, 6
chiến hạm chạy buồm, 5 pháo hạm loại một chạy
chân vịt, 16 thuyền đại pháo bằng sắt có thể tháo lắp
được, 2 tàu trọng tải chạy chân vịt mang theo mỗi tàu
hai dàn đại pháo, 4 tàu chuyên chở ngựa chạy chân
vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu
cơ xưởng chạy chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền
gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân lực
gồm có 4 Đại tướng, 13 Đại úy thuyền trưởng đại
chiến hạm, 22 thuyền trưởng tàu chiến đấu, 95 Trung
úy chiến hạm, 105 sỹ quan hải quân cấp Trung úy,

khoảng chừng 100 Chuẩn úy, 100 bác sĩ y khoa, 80
sỹ quan hành chính, 8000 lính thủy. Sức mạnh hỏa
lực gồm 475 miệng lửa; sức mạnh mã lực của đội hải
thuyền tổng cộng 7.866 mã lực.Nhiều tàu hơi nước
của các công ty hàng hải thuộc vùng bán đảo và Viễn
Đông được thuê bao để nối liền các cứ điểm từ bờ
biển nước Tàu đến Nam Kỳ. Các tàu thuê đều phải
mang cờ Pháp: Vị Tổng tư lệnh chọn lựa và biệt phái
sỹ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại
diện cho quân đội trên các tàu này. Tóm lại có 80 tàu
buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược,
than, tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm
quan trọng thật đáng chú ý.

Điều không may là một số các chiến hạm đã chiến
đấu từ bốn năm nay, vài chiếc đã bước vào năm thứ
năm. Thiết bị trên tàu ở vào tình trạng hư hỏng, các
nồi hơi súp-de của 4 phào hạm lớn và 3 hộ tống hạm
gần như rã rời từng mảnh. Tuy nhiên thủy thủ đoàn
tốt, sỹ quan xuất sắc, rất thành thạo sau 4 năm chiến
đấu. Có thể nói rằng họ tuy có mòn mỏi nhưng không
phải là kiệt lực, họ được khích động bằng một luồng
sinh khí anh hùng. Trong số các sỹ quan dời Pháp đã
lâu, có nhiều người khi đến Tàu vẫn còn là vị thành
niên. Họ già đi trong gian khổ và chỉ còn biết nước
Pháp qua các bức tranh họ mang theo, họ cũng chẳng
hiểu gì hết về thói tục của những dân tộc trước mặt
họ, biết đâu họ cũng chỉ vô tình như những thủy thủ
khác mà thôi. Những năm tốt đẹp nhất của đời họ đã
trôi đi trong khắc khổ, thiếu hẳn sự gần gũi với xã hội

xung quanh; sự chung đụng mà ta thấy nơi nào trên
trái đất cũng có, nhưng tuyệt nhiên thiếu hẳn ở cái đất
Tàu này. Chẳng có gì làm rung động trái tim của
người trai trẻ mới 25 tuổi đời (Tiếc quá, tác giả
chẳng tìm được cô gái Tàu nào ở Thượng Hải sao?
Có thể đây là cách viết của tác giả để tự ám chỉ mình
một các kín đáo - ND). Vì thế, họ đành chú tâm tới
những chuyện khác vậy. Họ kể chuyện xông pha
chiến đấu, những thành tích xuất sắc trong ngành
nghề của mình, họ bàn với nhau về bảng thăng
thưởng. Rút lại cũng là lợi lộc (tôi muốn nói ở đây là
danh dự chớ không phải tiền bạc) đã làm món mồi để
lôi cuốn tham vọng, làm mất đi ý nghĩa hy sinh cao
cả của đời họ, kể cả những sở thích riêng tư họ cũng
phải hy sinh, nhưng lúc nào họ cũng sẵn sàng hy sinh
thêm, họ coi giá trị của huân chương và cấp bậc từ
trên ban xuống thật xứng đáng với sự hy sinh của họ.
Không cón ai non dại. Họ đều có vẻ rắn rỏi và năng
hoạt; người nào trước kia dù có nông nổi cũng đã trở
nên nghiêm trang hơn; nhiều người đúng ra đã bước
vào tuổi thích nghĩ ngơi nhưng vẫn tỏ ra rất hăng hái.
Họ dễ bị khích động vì vinh quang, vì danh dự để bảo
tồn thanh danh của người thủy thủ; họ tạo thành một
khối quân nhận đoàn kết chặt chẽ, nếu sau này có tan
rã thì dù cho có gặp hoàn cảnh thuận lợi như trước
cũng biết đâu không bao giờ còn tái tạo lại được một
khối chặt chẽ như vậy, vì những người đã từng tạo ra
nó không còn nữa. Không cần phải khó khăn tìm tòi,
ta cũng nhận thấy họ là những người của biển cả,
những chiến sĩ, những nhà địa lý thủy học, bác học,

ngôn ngữ học; vị chỉ huy trưởng nào chẵng sung
sướng thấy dưới tay điều khiển của mình có những
Đại úy thuyền trưởng mới 30 tuổi, chiến đấu không
ngừng với sóng gió trên mặt biển xứ Tàu, cặp bờ vào
đất Thượng Hải ở bất cứ thời tiết nào, mặc dù bờ biển
nơi đây được coi là khó khăn nhất thế giới. Khả năng
quyết định được đem ra thử thách liên tục ở mọi sự
kiện, nagy khi hành động đang xảy ra, đã tạo cho mỗi
người con đường đi lên. Người chỉ huy có thể trông
cậy và tin cẩn ở những con người như thế.
Công bố cuộc viễn chinh đánh chiến Nam Kỳ với
một lực lượng hùng hậu cũng giống như có một dòng
máu mới bơm vào huyết quản của họ, những huyết
quản đã bao lần sôi sục.

Giai đoạn chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ làm bừng dậy
tinh thần đồng đội; nhiều người đã từ lâu được quyền
trở về Pháp cũng không muốn nhắc tới chuyện này.
Người nào cũng muốn dự phần vào cuộc hành quân
sắp diễn ra.

Woo-sung là một làng Tàu nghèo nàn ở ngã ba sông
Yang-tze và Wam-poo. Làng là bến đậu và chỗ họp
của hạm đội. Vùng đồng ruộng chung quanh thật
bằng phẳng, chỉ hơi nhấp nhô một vài nơi; Gồm có
ruộng lúa và ruộng trồng bông vải thấp ;lè tè. Cảnh
vật buồn tênh. Tất cả sinh hoạt đều dồn trên mặt sông
Thượng Hải, thuyền buồm ngược xuôi không ngừng;
nhiều chiếc trọng tải đến 300 tấn: có đủ khả năng đi
biển, rất linh hoạt, xoay trở thật tài tình nhờ bánh lái

có đục lỗ. Tàu bè Châu Âu từ khắp nơi trên thế giới
đến, xuôi dòng trên sông nhưng thường thì không ghé
vào Woo-sung. Hải quân bỏ neo thành hàng dài thật
oai nghiêm bên phía tả ngạn vì nước sâu hơn; phía
hữu ngạn nước cạn có nhiều cồn. Từ trên cột buồm
của chiến hạm Impératrice-Eugénie có thể nhìn thấy
thành phố Thượng Hải (câu này ta đoán tác giả là
người ở trên chiến hạm Impératrice-Eugénie, hoặc
thuộc đạo thủy binh lục chiến được đưa lên tàu đi
Nam Kỳ-ND); liên lạc thường xuyên từ tàu với thành
phố Thượng Hải nhờ vào các pháo hạm bằng sắt,
thuyền buồm hay kỵ mã do Hải quân thuê mướn. Đại
tướng Cousin-Montauban đặt bộ chỉ huy tại Thượng
Hải gồm đến 2000 người thuộc quân đội Pháp.

Chính từ Woo-sung cuộc viễn chinh được tiếp tục
chuẩn bị và quyết định từng chi tiết một. Hoàng đế
("Hoàng đế quyết định hôm nay ở Hội đồng Chính
Phủ truyền cho Thống Chế Bộ trưởng Chiến Tranh
ra lệnh bằng văn thư ngay tức khắc cho Đại tướng
Montauban để bàn thảo và hội ý với ông trong mục
đích chiếm giữ cho nước Pháp vị trí thật quan trọng
là Sài Gòn". Và kế tiếp:"Hoàng đế, ông biết không,
đã sai viết thư cho Đại tướng Montauban bảo ông
này phải đặt dưới quyền của ông 1.800 quân" Hai
đoạn trên trích từ 2 công văn của Bộ trưởng Hải
quân gửi Phó thủy sư đề đốc Charner, ngày 26 tháng
9 và 10 tháng 12 năm 1860 - TG) ra quyết định là
một phần quân số viễn chinh ở Tàu sẽ đặt dưới quyền
điều khiển của Phó thủy sư đề đốc Charner. Vị chỉ

huy trưởng Charner liền hội ý với Đại tướng
Montauban và cùng nhau đưa ra quyết định như sau:

Đại tướng lữ đoàn de Vassoigne sẽ chỉ huy các binh
đoàn viễn chinh, dưới quyền của đề đốc chỉ huy
trưởng. Bộ binh, lính đánh bộ người Châu Phí, Pháo
binh, công binh, hậu cần gồm chung là 85 sỹ quan,
1303 quân sĩ, 272 vừa ngựa vừa lừa. Quân sĩ rút bỏ
các đảo Chu-san

(Bộ binh: Sỹ quan:39; Lính:709; Ngựa:22
Bộ binh người Phi Châu: Sỹa quan: 3; Lính:29;
Ngựa:31
Pháo binh: Sỹ quan:15; Lính:16; Ngựa:184
Công binh: Sỹ quan:4; Lính:77; Ngựa:13
Hậu cần: Sỹ quan:24; Lính:172; Ngựa:22)
__________________
Biệt đội bộ binh đóng giữ các hòn đảo này sẽ chuyển
về Hồng Kông. Đội thủy binh lục chiến trước đây đặt
dưới quyền chỉ huy của đề đốc do một quyết định
chung của đồng minh ở Ta-kou, gồm 800 người (Đại
tướng O'Malley, trên nguyên tắc, phải rời bỏ Tien-
tsin cùng với trung đoàn chiến đấu 101 đến Sài Gòn.
Nhưng việc này không được thực thi đúng như vậy, vì
sau đó đại tướng lữ đoàn de Vassoinge (thủy quân
lục chiến) được chỉ định bằng công hàm Bộ trưởng
giữ chức Phó chỉ huy trong binh đoàn viễn chinh
đánh chiếm Nam Kỳ. " Tôi có sai Tham mưu Trưởng
bộ tổng tham mưu viết thư cho đại tướng O'Malley,
ngay khi có thể thực hiện được, sẽ cùng với tiểu đoàn

chiến đấu 101 đến Sài Gòn sáp nhập với ông ".
Trích tư của đại tướng Cousin-Montauban gữi cho
Phó thủy sư đề đốc Charner, ngày 14 tháng giêng
1861 - TG) , nay đem sáp nhập vào binh đoàn viễn
chinh. Một sỹquan tùy viên quân sự của bộ tổng tham
mưu được biệt phái thâm cho binh đoàn (Vị chỉ huy
trưởng kỵ binh của bộ tham mưu được chỉ định giự
chức vụ này, và một đại úy cũng của bộ tham mưu
làm phụ tá cho ông - TG) để bảo quản việc điều động
quân lính và thực thi quân kỷ trong các cơ quan.
Công tác lập doanh trại, cứu thương, lương thực sẽ
do Ủy ban kế toán quân đội đảm trách, Ủy ban do 1
vị phụ tá quân nhu trưởng chỉ huy. Sở Ngân khố và
bưu điện được thiết lập thường trực tại Sài Gòn. Một
viên chức liên lạc được đặt tại Singapore để tiếp nhận
công hàm, văn thư từ Châu Âu chuyển sang Nam Kỳ.

Như vậy là binh đoàn viễn chinh đã được tổ chức
xong. Nếu kể thêm đội thủy quân lục chiến sẵn có
trong thành phần quân lính đóng tại Sài Gòn, cùng
với ban chỉ huy đã thành thạo của đội ngũ này, thì số
binh đoàn nhỏ tại Nam Kỳ cũng đã tăng lên đến 4000
người. Hiển nhiên đây là một quân đoàn đủ sức tiến
lên, chiến đấu, cắm quân và tiếp tục chiến đấu nữa;
không như các toán quân mà sáng thì đổ bộ, chiều
phải rút về điểm xuất phát, nếu muốn sống còn.
Kinh nghiệm ở Bắc nước Tàu đã cho thấy sự ích lợi
của phu khuân vác người Tàu. Dưới khí hậu nóng
bức, nhiễm độc vì bệnh sốt rét kinh khiếp này, bọn
cu-li lại cáng cần thiết hơn nữa. Vì thế ta có chiều

hướng đặt người Âu Châu giữ vai trò chiến đấu mà
thôi. Một đội quân đánh thuê gồm 600 người được
tuyển mộ và huấn luyện do đại úy hải quân chỉ huy
trưởng Canton là Coupvent-Debois đảm trách.

Tiền bạc, lương thực, than được tồn kho và phân chia
cất giữ ở Hồng Kông, theo những chỉ thị và tiêu
chuẩn đặc biệt thích nghi và phù hợp cho nhu cầu của
cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Chuẩn thủy sư đề đốc Page
nhận chỉ thị phải cho lệnh các tàu chiến từ Pháp sắp
đến đây phải chuyển vào Hồng Kông 13000 đồng
tiền Mễ Tây Cơ mà các tàu này mang theo. Chiến
thuyền Persévérante giữ trọng trách cất giữ số tiền đã
được chia cho Pháp quy định trong hiệp ước Tien-
tsin và thỏa ước Bắc Kinh. 400.000 khẩu phần lương

×