Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Chương tám: NGOẠI GIAO THỜI LÊ - TRỊNH NGUYỄN- Quan hệ với Xiêm pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.54 KB, 12 trang )

Chương tám

NGOẠI GIAO THỜI LÊ - TRỊNH NGUYỄN – phần
2


3. Quan hệ với Xiêm

Họ Nguyễn từ khi hưng khởi chưa thông hiếu với
Xiêm, chỉ có mâu thuẫn, tranh chấp nhau để giành bá
quyền đối với Chân Lạp.

Tới giữa thế kỷ XVIII, vì thuyền buôn của hai nước
khi qua vùng biển của nhau thường bị bắt giữ, nên
hai bên có công văn và sứ thần qua lại giao dịch về
những sự việc này.

Năm 1775, triều đình Xiêm cho sứ đem thư sang
triều đình Nguyễn nêu một số vụ tàu biển của nhà
nước Xiêm sang mua hàng ở Trung Quốc, trên đường
về tránh gió ở một số hải cảng ở miền Trung An Nam
bị quan chức địa phương thu hết vật phẩm, hoặc đánh
thuế quá cao. Trong khi đó thì một số người An Nam
có những hành động kiểu "hải tặc" ở vùng biên Tây
Nam, bị quan lại địa phương của Xiêm bắt đều được
thả về Ý vua Xiêm muốn vua An Nam biết những
tàu bị bắt giữ là tàu của nhà nước Xiêm đi mua "đồ
khố dụng nội vụ cho triều đình". Cũng chính vì vậy
mà triều đình An Nam nên dùng luật pháp để xử lý
quan lại địa phương (không báo cho triều đình biết),
cho xin lại những vật phẩm đã bị thu giữ trước đây.


Qua thư, triều đình Xiêm cũng xin triều đình Nguyễn
cấp cho 10 chiếc thẻ bài để tiện cho tàu bè nhà nước
Xiêm thuận lợi trong việc đi lại Trung Quốc mua
bán. Để bày lòng hữu hảo, kèm theo thư, vua Xiêm
cũng biếu chúa Nguyễn một số vật phẩm quý hiếm.

Thư của triều đình Xiêm có đoạn:

"… Vâng theo lòng quốc chúa nước tôi thương mền
nước An Nam, tâu rõ ở Kim-loan chính điện, kính lấy
lòng nhu hoài nước xa, nghĩ An Nam và Xiêm La là
hai nước láng giềng rất thân, không thể nhân việc nhỏ
mà bỏ mất đại nghĩa. Ba lần thuyền đi mua năm trước
với các đồ thập vật khố dụng chở về nước bị thu vào
nước An Nam đã bị kho quan lấy cả, chắc rằng bọn
hữu ty nước An Nam chưa có tâu rõ với vua An Nam
biết rằng thuyền tránh gió là thuyền nước Xiêm sai
khiến đi mua đồ khố dụng nội vụ cho nên quan sai
tùy lòng mặc ý trưng thu, đó cũng là vì người bề trên
nước An Nam chưa được biết rõ vậy. Có lẽ nào hai
nước hàng xóm với nhau, bên qua bên lại, giao thông
hòa hậu, lại không nghĩ lấy nhân nghĩa đối với thiên
hạ mà đánh thuế thuyền ghe quá nặng, rút thu tài vật
nhỏ mọn như thế. Thực vì bọn hữu ty kia không có
tài. Không phù xã tắc, chăm đem chính sách trị an
thiên hạ mà giúp đỡ minh quân nước An Nam; bọn
hữu ty chuyên quyền cố ý thu thuế nặng nề và che
giấu không báo, không thể lòng vua An Nam là bậc
nhân thánh thông minh, không nghĩ sự mềm mỏng
với các chư hầu, thông hòa với nước láng giềng, mặc

ý trưng thu thuế khóa, coi rẻ nước Xiêm chúng tôi,
dứt đường thuyền bè qua lại trên biển mà trở thành
cừu địch ".

"… Nay may có sứ mệnh An Nam tại đây, nên giao
tiếp với Thống chánh sứ ty để cho yên việc với nước
láng giềng. Quan hàn lâm viện nội các đại học sĩ soạn
văn thư, đặc sai hai viên chấp sứ thần là Lãng-phi-
văn-khôn và Khu-sa-lũ-thao mang sứ mệnh cùng với
khâm sứ An Nam đi sang báo cho biết, xin vua nước
An Nam, trông đến nước Xiêm khâm dụ cho quan đại
thần phụ trách đem các đồ thập vật sở phí của các
thuyền ba lần tránh gió đưa trả lại để cho sứ thần là
bọn Lãng-phi-văn-khôn và Khu-sa-lũ-thao điểm rõ
rồi hộ tống ra ngoài cõi để về nước, ngõ hầu không
mất tình hòa hậu với nước láng giềng. Cảm ơn thực
không bờ bến. Lại xin cấp cho mười cái thẻ long bài
chiếu thân vào cửa biển để cho chủ thuyền sau này có
phải tránh gió vào cảng thì khỏi bị sai quan trưng thu
sách nhiễu, đến khi gió thuận thì cứ theo nguyên
thuyền mà ra về, tức cũng sẽ khiến thuyền Xiêm La
sau này qua lại không ngớt. Vâng ban thổ sản màn
trắng 5 tấm, màn đỏ 3 tấm, màn đại hoa mãn thiên 2
tấm, cộng 15 tấm, phụ giao cho sứ mệnh đem đi dâng
lên vua nước An Nam thiên thu nhận cho, gọi là diện
mục cách xa nghìn dặm mà chút tỏ được tấm lòng
nhỏ mọn. Kính dâng. Kính tuân mọi lẽ đến Nội các
vâng sao làm văn thư để tư hội.

Trên đây là tư cho quốc chúa An Nam điện tiền, hồng

phúc nghìn thu mắt rồng ngự lãm Long phi năm Ất
Hợi, mạnh hạ tháng tư”.

Nhận được thư, triều đình Nguyễn có ngay thư phúc
đáp. Thư của triều Nguyễn thể hiện sự chịu ơn triều
đình Xiêm đã có nhiều thiện ý trong quan hệ hữu hảo
giữa An Nam và Xiêm trong thời gian qua, đặc biệt là
việc vua Xiêm thả một phần trong số ngư dân An
Nam bị Xiêm bắt giữ. Nội dung chính của bức thư là
đề cập tới ba sự kiện tàu của Xiêm bị bắt giữ, bị trưng
thu vật phẩm, với những lý lẽ vừa mềm dẻo, vừa rắn
rỏi mà chặt chẽ. Mặc dầu ý nguyện không thành,
song triều đình Xiêm cũng khó lòng gây căng thẳng.

Thư của triều đình Nguyễn có đoạn:

" Trong thoảng hai năm Bính Dần (1746) và Mậu
Thìn (l748), khi thuyền đỏ vào cảng, giả sử hoặc bọn
sai nhân vì tham mà trưng thu quá lệ thì đương lúc đó
cũng không được nghe báo gì. Vả theo lệ nước tôi cứ
ba năm làm một lần xét công, năm năm làm một lần
cắt bổ, đã có phép thường, có dung những bọn tham ô
đâu! Khi có giấy đến, truy cứu nguyên lai thì người
già đã chết, người tội đã truất, việc trải năm tháng,
hai bên đều không có bằng cứ gì. Phải thế hay không
phải thế? Vậy hãy để đó không bàn. Lại năm Quý
Dậu (1753), thuyền của Dương Thành Chương nói từ
Quảng Châu đến, cả thuyền hóa vật không có chút gì,
không cho vào cảng, đó là lệ thường của bản gốc vậy.
Y tự khẩn cầu theo lệ vào cảng thì hữu ty cứ trưng

thu, không phải là quá lạm, nào có cớ gì khác đâu?
Nếu bọn ấy làm hết cả tài vật mang theo, chẳng phải
do vũ nữ ca nhi thì cũng là do điềm rượu sòng bạc,
rồi khi trở về tìm cách nói dối, đó là những lời không
căn cứ vào đâu, thế mà lại nghe lời một bên mà đòi
trả bạc, thực đúng như câu ngạn ngữ "Trương công
uống rượu, Lý công say”. Đó là điều chúng tôi chưa
hiểu được … "

Đáp lại việc vua Xiêm biếu lễ vật, triều đình Nguyễn
cũng cho người mang lễ vật sang biếu.

Chúa Nguyễn cũng trực tiếp viết thư gửi vua Xiêm
với lời lẽ vừa mềm dẻo vừa rắn rỏi, thể hiện bản cách
của một đất nước, một "Quốc vương có chủ quyền,
ngang hàng với các nước khác. Thư có đoạn:

" … Lại trong thư có nói rằng trước kia nước An
Nam đều chưa có người làm xằng bậy, đánh cướp
miền ven biển, mà vài năm lại đây lại thường thường
xâm lấn cõi biên, cướp bóc cư dân. Tôi xem tới đó
bất giác ngùi ngùi mà than rằng: trong tai ta chưa
từng nghe có lời ấy bao giờ! Nhà nước tự có phép độ
há dung những loài quỷ quái xem thường pháp luật
hay sao? Nếu giả có thật thì đó là do thú tướng ngăn
cấm hãy còn sơ hớ, trời biển mênh mông tôi làm sao
mà biết hết được!

Lấy tình hai nước thân nhau hiểu nhau thì sao lại có
sự ngồi trông dân nước láng giềng mắc phải cái thảm

họa cướp bóc mà để ngoài bụng nghĩ được!

Tưởng quý quốc cũng lượng xét cái lòng nghĩ cấm
bạo để hòa mục với nước láng giềng của tôi đấy. Từ
nay tôi nghiêm sắc cho các thú tướng ở miền ven
biển đều nên cấm răn dân ngoài biển không được
cướp bóc thuyền buôn các nước trên đường biển. Nếu
còn giữ thói cũ thì xử vào tội nặng, quyết không nhẹ
tha. Vả quý quốc còn thương người dân xiêu giạt, cho
về bản quán, thì tôi há nỡ dung túng bọn vô lại ở ven
biên để cho quấy rối con đỏ của nước láng giềng ư?.

Nhưng trong thư trả lời có vài câu nói không thể
không bàn lại được, xin hãy vì quốc vương mà tỏ
bày: như câu nói "An Nam hướng hóa rất là đáng
khen”, lại nói “An Nam lấy lòng thành mà tiến cống
với hướng hóa”, cứ những câu nói như thế không biết
nước Xiêm coi nước tôi vào bực nước nào? Điều đó
tôi chưa hiểu rõ. Phàm trên lấy ở dưới thì gọi là phú,
dưới cung lên trên thì gọi là cống, nghĩa chữ "cống"
là dưới dâng lên trên. Còn hai chữ “hướng hóa" là
nước ngoài mộ phong hóa của trung triều vậy. Nước
Xiêm La cùng với nước An Nam cũng như các nước
Tề, Sở, Yên, Triệu là những nước bằng hàng với
nhau, sao lại có sự nước bằng hàng biếu nhau mà gọi
là tiến cống, nước láng giềng giao hảo với nhau mà
gọi là hướng hóa, sao danh thực không xứng với nhau
như thế? Tôi tưởng người bầy tôi cầm bút của quý
quốc thích viết lời tự tôn tự đại mà không biết nói
như vậy là sai. Quốc vương là bậc thông minh anh

duệ, há không biết từ xưa nước An Nam là nước văn
hiến mà lại nói như thế? Ơn cho quà biếu hậu đã thu
nhận rồi. Đa tạ, đa tạ!" (Những thư trao đổi giữa chúa
Nguyễn và triều đình Xiêm đều chép trong sách Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn).

Quan hệ giữa Xiêm và Việt Nam ở thế kỷ XVIII
không phải chỉ hạn chế trong những chuyện bắt giữ
vài ba thuyền buôn của nhau và những thư từ tranh
luận như vậy, mà ngày càng căng, vì những mưu đồ
bành trướng sang phía đông của Xiêm.

Trong nửa cuối thế kỷ XVIII, Xiêm nhiều lần đánh
chiếm Hà Tiên mong lấy đó làm bàn đạp đánh lên
phía bắc Việt Nam và đánh sang Chân Lạp. Nhưng
âm mưu không thành. Tới khi một Hoa kiều ở Xiêm
là Trịnh Tân, người Triều Châu (Trung Quốc) nổi
loạn cướp ngôi vua Xiêm, tự lập làm vua, thì kế
hoạch đánh Việt Nam được đẩy mạnh. Năm 1771, vị
vua Xiêm người Trung Quốc ấy cho hai vạn quân
sang đánh cướp Hà Tiên, chiếm đóng hai năm thì bị
quân dân ta đánh, phải bỏ chạy.

Năm 1784, chúa Nguyễn lưu vong Nguyễn Ánh bị
Nguyễn Huệ, lãnh tụ phong trào khởi nghĩa Tây Sơn
đánh đuổi, chạy sang Xiêm cầu cứu. Vua Xiêm vội
nắm lấy cơ hội, mượn cớ giúp Nguyễn Ánh để tiến
hành xâm lược Việt Nam. Nhưng quân Xiêm tiến vào
Gia Định thì bị Nguyễn Huệ đánh cho đại bại, quân sĩ
tiêu tan, mộng xâm lược cũng tiêu tan. Kết quả là

“Xiêm sợ quân Tây Sơn như cọp".


×