Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Lý Thường Kiệt - Dấu chân trên đất Tống phần 1 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.54 KB, 10 trang )

Lý Thường Kiệt - Dấu chân trên đất Tống

Lời tựa cho cuốn Lý Thường Kiệt của Giáo sư
Hoàng Xuân Hãn

Từ đời Tần, mỗi lúc có một họ thống nhất Trung
Hoa, họ ấy liền nghĩ đến việc chiếm các nước nhỏ
xung quanh. Tần có Nhâm Hiêu, Triệu Đà; Hán có
Lộ Bác Đức, đều đã đạt mục đích là diệt họ đang cầm
quyền ở đất Việt.

Sau trong khoảng độc lập hoàn toàn trở lại ở nước ta,
những cuộc xâm lăng bắt đầu từ đời Tống, dưới triều
Tống Thái Tông, tướng Tống tưởng lấy nước ta dễ,
đã khinh cử, nên thất bại hoàn toàn bởi tay Lê Hoàn.

Lần thứ hai, dưới triều Tống Thần Tông, thế vua
Tống và Tể tướng Vương An Thạch rất to, nên sự
xuất quân được dự bị một cách cẩn thận và đầy đủ:
quân hơn 10 vạn, sửa soạn một năm, tướng tá tinh
nhuệ, kế hoạch định rõ từng chi tiết.

Đáng lẽ nước ta lúc ấy bị đổi thành châu quận của
Tống. May ! Đương thời, có một vĩ nhân cầm quyền,
có đủ óc chính trị, biết kết thúc nhân tâm, có cao tài
lợi dụng thời cơ, có kinh nghiệm điều binh khiển
tướng.

Bậc ấy là Lý Thường Kiệt.

Bằng một trận tấn công chớp nhoáng, Thường Kiệt


phá các căn cứ địch, trước khi Tống khởi việc động
binh; rồi rút về, cương quyết cố thủ trên sông, ngăn
cản xâm lăng xuống đồng bằng. Khí hậu nóng, lam
chướng độc, địa thế hiểm, thêm vào sự bất lực của
tướng Tống, sự bất hoà giữa các kẻ cầm quyền chung
quanh Tống Thần Tông, khiến cho trận tấn công vĩ
đại của Tống phải ngừng trước cửa Thăng Long, gần
nơi lăng tẩm nhà Lý và trước cánh đồng phì nhiêu ở
trung nguyên nước ta.

Thường Kiệt hiểu thời cơ, chịu tạm nhường về thể
diện, khiến Tống lui quân và ta bảo toàn binh lực.
Sau đó, Thường Kiệt biết dùng ngoại giao dựa vào
binh lực ấy làm hậu thuẫn, mà đòi được đất đã mất.
Cuối cùng không những Tống không dám dòm ngó
nước cõi ta, mà bắc thuỳ của nước Việt lại được
khuếch trương và củng cố.

Đó là kỳ công của Lý Thường Kiệt.

Đối với một anh hùng dân tộc bậc nhất trong lịch sử
nước ta, sử sách ta tuy có ghi công, nhưng chép sự
nghiệp một cách sơ sài và sai lạc. Lại thêm các nhà
văn phụ hoạ; làm cho ngày nay chúng ta rất mơ hồ về
đoạn sử oanh liệt nhất của tiền nhân.

Trong hồi năm 1943, vì tránh máy bay oanh tạc Hà
Nội, tôi đã phải theo trường học vào Thanh Hoá.
Trong khi nhàn rỗi, tôi đã để ý tìm tòi cổ tích, mà tôi
biết có nhiều ở trong vùng. Tôi đã may mắn tìm thấy

bốn tấm bia còn rõ chữ, trong đó có ba bia ghi công
Lý Thường Kiệt đối với các chùa. Tôi đã sắp công bố
sự phát giác kia liền. Nhưng tôi nghĩ đối với các vũ
công của Lý Thường Kiệt, sử sách há lại không có
đâu chép kỹ càng, để ta có thể soạn lại một sách kể
lại toàn bộ sự nghiệp sao ?

Sau khi tìm tòi cẩn thận, tôi đã thấy một bộ sách đời
Tống để lại, là Tục tư trị thông giám trường biên. Tuy
nay đã mất lỗ một vài phần, nhưng trong năm trăm
hai mười quyển còn nguyên, ta có thể lượm lặt những
sự có liên quan đến việc bang giao Tống Lý.

Nhờ đó ta biết được một cách tường tận việc Lý
Thường Kiệt đánh Tống, việc Tống xâm lăng nước
ta, việc ta điều đình đòi đất. Những chi tiết vụn vặt
rất nhiều, khiến ta có thể sống lại, hàng ngày, những
phút của vua tôi nhà Tống lo việc đánh nước ta, và
nhờ đó, biết công lao của Lý Thường Kiệt.

Tham khảo với các sách cũ khác, soạn bởi người
Tống hay người ta, tôi dọn xong quyển sách này. Tuy
nhan đề Lý Thường Kiệt, nhưng thật ra là bang giao
với Tống của nước ta về thế kỷ thứ XI, trong triều
Lý.

Chắc độc giả sẽ trách sự chênh lệch trong cách chép
chuyện Tống và chuyện Lý : chuyện Tống đã kỹ càng
mà chuyện Lý đơn sơ. Tác giả cũng lấy điều đó làm
ân hận. Nhưng lỗi là tại dân tộc ta, hoặc đã ít biên

chép việc đương thời để di truyền lại đời sau, hoặc
không biết giữ những vết tích xưa; cho nên nay rất
hiếm tài liệu của ta về việc ta. Tôi cũng biết rằng,
muốn tránh sự chênh lệch, còn có thể bớt phần nói
đến các việc Tống. Nhưng những việc vụn vặt ấy, trải
qua chín trăm năm còn truyền lại, khiến ta như còn
thấy trước mắt; há lại lược đi nhiều. Và chỉ giữ đại
cương hay chọn những chi tiết, nó càng rõ ràng bao
nhiêu, lại làm ta, đoán bấy nhiêu hành động của
người nước ta, mà sử ta không biết bảo tồn.

Những việc tôi kể trong sách, hoàn toàn là có chứng
và được dẫn chứng. Cũng trong các hạng chứng, tôi
chỉ để ý đến những chính xác mà thôi.

Không bịa đặt, không thiên vị, hết sức rõ ràng : đó là
những chuẩn thằng mà tôi đã theo, trong khi viết
cuốn sách này.

Tuy sách chưa được hoàn bị, vì cuộc chiến tranh
giành độc lập của dân tộc ta, không cho tôi những
phương tiện khảo cứu thêm; nhưng chính cuộc tranh
đấu ấy đã giục tôi đưa bản thảo hiến độc giả.

Mong ai nấy thấy rằng lòng dũng cảm, chí quật
cường của dân tộc ta ngày nay có cội rễ rất xa xăm.

Mong ai nấy thấy một cách rõ ràng, cụ thể, sự nguy
hiểm của một cuộc ngoại xâm, nhận thấy sự lo việc
nước không phải chỉ ở đầu lưỡi, mà cần hết cả lòng hi

sinh, trí sáng suốt để xếp đặt, tính toán.

Đọc xong đoạn sử này, độc giả sẽ thấy, cách đây ngót
nghìn năm, cha ông ta đã đủ tài năng, nghị lực để gây
dựng, tổ chức và giữ gìn khoảnh đất gốc cuội của Tổ
quốc ta ngày nay; độc giả sẽ nhận thấy huyết quản
của chiến sỹ bây giờ vẫn chan hoà dòng máu nóng tổ
tiên, máu nóng mà không lẽ có người lại không mang
một giọt. Dẫu trong nhất thời, có kẻ lỡ lầm làm hại
nước, hoặc con dân một nước có ý tưởng dị đồng,
trước nạn bại vong, giọt máu ấy cũng đủ gây nên chí
quật cường, lòng tương ái.

Vẫn biết sống về tương lai; nhưng dĩ vãng là gương
nên ngắm lại.

Vẫn biết tương lai là thế giới đại đồng; nhưng trước
lúc ấy, nước mình phải là một nước thật.

Vẫn biết chớ vin vào phân tranh đời trước mà gây
oán thù đời sau, nhưng biết rõ sự tranh đấu đời xưa,
sẽ làm cho các nước càng kính nể nhau thêm, và mới
hiểu vì sao mà phải cộng tác ngang hàng.

Đó là những ý tưởng và nguyện vọng của tác giả,
trong khi viết bài tựa này. Tưởng cũng không lạc đề
đối với vấn đề Lý Thường Kiệt.

Hoàng Xuân Hãn


( Người chép sử dụng tác phẩm Lý Thường Kiệt của
giáo sư Hoàng Xuân Hãn làm tài liệu tham khảo
chính cho tất cả các bài dưới đây).
I. Ung Châu và Khâm Châu

Nước Việt thời Lý hoàn toàn tiếp đất Quảng Tây -
tức là Quảng Nam tây lộ, một trong hai lộ đông tây
của vùng Quảng Nam cực nam nước Tống.

UNG CHÂU là châu thuộc Quảng Tây và tiếp nước
ta, viên quan coi Ung Châu có chức An phủ đô giám,
coi tất cả việc binh lương, luyện tập phòng ngự ở
biên thuỳ ( sau ta sẽ gặp Tô Giàm mang chức đó khi
quân Lý sang đánh). Ngoài ra các trại tiếp nước ta
còn đặt chức Tuần phong sứ hoặc đô giám. Về quân,
thì Ung Châu gồm hai đoàn, gọi là hai “ tướng”. Mỗi
tướng có 5000 quân. Giữ biên thuỳ Đại Việt, có một
tướng lại chia làm hai phần : 2000 đóng ở thành Ung,
3000 chia đóng ở 5 trại tiếp giáp ta : Hoành Sơn, Thái
Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long.

KHÂM CHÂU và LIÊM CHÂU cũng thuộc Quảng
Tây, sát biển ( tiếp giáp Quảng Ninh và Lạng Sơn
ngày nay), đặt viên Phòng biên tuần sứ cai quản đoàn
quân gọi là Đằng Hải, quân này hợp với quân của hai
viên tuần kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại
: Như Tích giáp biên thuỳ châu Vĩnh Anh nước ta và
Để Trạo ở cửa sông Khâm Châu.

Quân số chính thức ở Ung, Khâm, Liêm kể trên chỉ là

quan quân chính qui của triều đình. Ngoài ra còn
nhiều thứ quân địa phương : dân quân và đặc biệt là
quân khê động ( tức là quân các động miền núi,
không thuộc ta và cũng không thuộc Tống), về sau ta
sẽ thấy quân khê động đóng vai trò rất lớn trong
những trận tiến công của Lý.

×