Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

TRANG PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG - TRANG PHỤC LỄ HỘI pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.74 KB, 6 trang )

TRANG PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG

7. TRANG PHỤC LỄ HỘI

Trang phục lễ hội trong trống đồng cổ niên đại giữa
thiên niên kỉ thứ nhất TCN đã khắc họa hình ảnh các
trang phục. Chiếc váy xòe miêu tả rõ nét những bộ
trang phục được đặc tả theo lối vẽ nhìn nghiêng, có
một vạt trước và một vạt xòe ra sau đuôi, đây là cách
thể hiện trong lối vẽ cổ xưa của tranh tượng hình Ai
Cập. Những bông lau gài trước mũ được thể hiện
khác với lông vũ. Những chiếc lông vũ tạo thành mũ,
phía trước có cắm bông lau là nét đặc trưng của cộng
đồng khi có lễ hội. Trong chuyện lịch sử công chúa
con An Dương Vương mặc áo lông ngỗng và trong
truyền thuyết Thánh Gióng, bông lau được dùng làm
áo cho Thánh Gióng khi dẹp giặc Ân… Những hình
ảnh lễ hội nhảy múa vũ điệu chiến thắng và đua
thuyền của cộng đồng là những hình ảnh quan trọng
thời Hùng vương.

Sinh hoạt đua thuyền truyền thống của dân tộc ta còn
tồn tại tới ngày nay. Các lễ hội đua thuyền là cơ sở để
luyện tập truyền thống thủy binh Đại Việt. Những
hình trang trí vòng tròn đồng tâm có tiếp tuyến được
được trang trí ở mạn thuyền trong trống đồng còn
được dùng để trang trí trong những chiếc thuyền ở
thế kỉ XVI – XVII – XVIII dưới triều Lê Trịnh, xem
tranh vẽ của giáo sĩ người Ý trong sách Delle
Missioni de Padridella Compagriadi Giesv Roma
1663 (F. Marini) chúng ta sẽ thấy điều này rõ hơn.


Nội dung ẩn:


Trang phục lễ hội phản ánh đầy đủ cuộc sống của cư
dân thời Hùng vương. Bộ trang phục ngày lễ hội
được trang bị đầy đủ gồm bộ áo lễ, mũ lông chim áo
choàng rộng cho cả nam lẫn nữ, có người đội mũ
hoặc chỉ mặc áo choàng lễ hội nhằm tạo ra nhịp điệu
trang trí và phản ánh cuộc sống hiện thực của buổi đi
lễ. Bên cạnh đó có một số hình chạm khắc trong lễ
hội là người cởi trần, đi đất, đó là hình ảnh thật, mộc
mạc, ghi lại cuộc sống chân thực hàng ngày. Việc
dùng đồ thảo mộc cây cỏ để chế tạo đồ dùng thường
ngày đối với người Việt là điều dễ hiểu, trong ngôi
mộ cổ thời Hùng vương ở Vân Nội cho thấy dấu vết
dùng cỏ cây để bọc người chết, sau này là tục bó
chiếu cho người chết. Những chiếc mũ quân thời
chúa Trịnh, chúa Nguyện trên vẫn cắm lông chim,
ngựa lưu tinh chạy trạm. Trên đầu ngựa cắm 3 chiếc
lông chim công nên tục ngữ Việt Nam có câu: “Chạy
như cờ lông công”. Làm áo lông vũ là tục lệ cổ
truyền của dân tộc Tày, một số dân tộc vùng Tây
Nguyên ngày nay vẫn sử dụng lông vũ và dải băng
buộc ở chân tóc.
Nội dung ẩn:



Những hình ảnh tìm thấy trong các di vậ khảo cổ học
nhìn thấy bằng hình vẽ đã có sự thuyết phục to lớn về

nhiều mặt và làm cho chúng ta cảm nhận một cách cụ
thể hơn. Hình vẽ bổ sung đồng hành đồng hành cùng
văn tự cổ cho ta một sự nhận diện đích thực có tính
đặc trưng trưng về truyền thống dân tộc trong nhiều
mặt. Các hình ảnh sinh hoạt thường ngày, lễ hội,
chiến đấu được phản ánh bằng các hình vẽ hay tượng,
điêu khắc cổ.

Buổi đầu dựng nước Văn Lang và Âu Lạc có cố kết
địa bàn sinh tụ ở bắc Việt Nam, có một lối sống
riêng, lễ tục riêng dựa vào nông nghiệp để phát triển
song song với nghề chài lưới, nghề rừng… Sau chế
độ công xã nguyên thủy chuyển sang xã hội sơ kì có
giai cấp với những đặc điểm “hình thái châu Á” trong
đó công xã nông thôn với quyền sở hữu toàn bộ
ruộng đất của công xã. Đó là cơ sở xã hội phổ biến và
phát triển bền vững. Nhiều phong tục từ cuộc sống
thường ngày được hình thành: tục xăm mình khi bị
thủy quái giết hại, tục cưới hỏi lấy gói đất hoặc muối
làm đầu. Người Việt có tục ăn đất. Trước đây các học
giả nước ngoài đã có chú ý đến việc này. T. Hamy
cuối thế kỉ trước (1899) đã viết về “Những người ăn
đất ở Bắc kì”. Đầu thế kỉ XX, G. Dumutier cũng nói
đến tục này. Vùng đất đai có tục ăn đất và chế biến
đất ăn là các tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Nam Định, Thái
Bình cũ, Dumutier đã mang mẫu đất về Paris để phân
tích mẫu đất, kết quả là “đất sét” có một ít sắt, vôi,
axit photphorich, iot… Phải chăng đây là một tục lệ
còn giữ lại mang tính truyền thống cổ đại? Người
Khang ở Thuận Châu, Sơn La có tục phơi đất lấy từ

đất ở sườn đồi sau đó gác bếp rồi lấy xuống ăn.
Người Ba Na cũng có tục ăn đất. Tác giả cuốn "Mọi
Côn Tum" viết: “Sau trận lụt có thứ bùn non đọng
trại trên mặt đất, khi khô họ lột từng bông để ăn…”.
Theo Lê Nhâm Tuyết trong “Hùng vương dựng
nước”: “Xưa kia trong khắp tỉnh Vĩnh Phú phổ biến
có nghề bán đất ăn, có gia đình làm giàu về nghề
này… Các chợ trong huyện Lâm Thao, Phù Ninh,
Tam Dương, Yên Lạc, Vĩnh Yên, Vĩnh Tường đều có
bán… chúng tôi mua ở chợ Xóm huyện Phù Ninh
một hào được ba miếng bằng hai đầu ngón tay…”.

×