Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ấn chương Việt Nam - Lệ phong ấn cho Hoàng thái tử, Hoàng tử, Hoàng tôn và Hoàng thân ở phủ Tôn nhân triều Nguyễn docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.3 KB, 11 trang )

Ấn chương Việt Nam - Lệ phong ấn cho Hoàng
thái tử, Hoàng tử, Hoàng tôn và Hoàng thân ở phủ
Tôn nhân triều Nguyễn

Ngay từ thời Gia Long đã có lệ dùng sách ấn vàng
tấn phong tước cho các Hoàng tử, Hoàng tôn, Hoàng
thân tước công trở lên. Lễ sách lập Hoàng thái tử diễn
ra với nghi lễ hết sức long trọng. Hoàng thái tử cùng
đại thần văn võ, Hoàng tử, Hoàng thân phủ Tôn nhân
quỳ lạy nghe chiếu, rồi Hoàng thái tử làm lễ nhận
sách vàng, ấn vàng và ngồi vào vị trí của người kế vị
sau này. Sử cũ ghi lại: “Gia Long năm thứ 15 (1816)
có chỉ: Chuẩn cho làm sách tấn phong cho Hoàng
thái tử thì dùng vàng 5 tờ… ấn làm bằng vàng, núm
đúc hình con rồng ngồi, vuông 2 tấc 4 phân dày 3
phân 2 ly”[190].

Ngoài lễ tấn phong sách vàng ấn vàng cho Hoàng
thái tử theo lệ chung, còn có trường hợp Hoàng thái
tử được ban ấn tín riêng. Đó là việc cuối đời Gia
Long không được thực hiện việc truyền ngôi kế thừa
theo dòng trưởng, lẽ ra Gia Long phải truyền ngôi
cho con trai Hoàng tử Cảnh là Hoàng Tôn Đán,
nhưng với một nhãn quan chính trị đúng đắn, ông đã
đặt giang sơn vào tay Nguyễn Phúc Đảm là người
con thứ (tức vua Minh Mệnh sau này), bất chấp sự
bất đồng của một số đại thần. Việc vua Gia Long ban
thêm ấn Hoàng thái tử thủ tín cho Hoàng thái tử Phúc
Đảm cũng nằm trong định hướng này. Chính sử ghi
(Gia Long) năm thứ 19 (1820) có chỉ: “Chuẩn cho
đúc ấn Thủ tín nhỏ và vuông bằng bạc cho Hoàng


thái tử (vuông 6 phân 7 ly, dày 3 phân) núm đúc con
rồng ngồi, trong khắc 5 chữ Triện Hoàng thái tứ thủ
tín”[191]. Như vậy trước khi lên ngôi, Minh Mệnh đã
được dùng ấn riêng có giá trị rất cao về mặt pháp
lệnh, hơn hẳn những ấn được phong cùng với sách
vàng.



Trên những văn bản chữ Hán - Kho Châu bản triều
Nguyễn còn in lại nhiều ấn Hoàng thái tử thủ tín. Dấu
hình vuông có kích thước 3,2x3,2cm, bên trong khắc
5 chữ Triện Hoàng thái tử thủ tín 皇太子守信 chữ
“Tử” 子 dài gấp đôi các chữ khác để cân đối với bố
cục dấu hình vuông. Xem xét những văn bản có đóng
dấu Hoàng thái tử thủ tín thì đều là những văn bản
quan trọng, điều này chứng tỏ cho luận cứ chúng tôi
nêu trên[192]. (H. 123)

Lễ phong sách ấn cho Hoàng tử, Hoàng tôn cũng diễn
ra nghi thức gần bằng lễ tấn phong Hoàng thái tử.
Sách sử ghi: “… Hoàng tử, Hoàng tôn được phong
tước công… ban ấn bằng vàng mạ, núm ấn đúc hình
rồng, vuông 2 tấc 3 phân 4 ly, dày 2 phân 7 ly. Hoàng
tử, Hoàng tôn được ban sách mạ vàng mười, ấn mạ
vàng mười… núm ấn hình rồng của mỗi chiếc ấn
vuông 2 tấc 3 phân 4 ly dày 2 phân 4 ly”[193].

Đối với những Hoàng tử, Hoàng tôn tuổi còn nhỏ quá
thì sách vàng vẫn ban phong, duy có ấn thì chưa trao

cho vội, sợ rằng trẻ nhỏ chưa phân biệt rõ mọi việc,
dùng ấn tín có sự lầm lỡ, đợi đến khi nào Hoàng tử,
Hoàng tôn đó lớn thì phủ Tôn nhân mới theo lệnh vua
cấp cho để dùng.

Đối với Hoàng thân công, việc phong sách ấn cũng
được Tôn nhân phủ thực hiện theo đúng quy chế,
nghi thức lễ phong cũng giống như lễ phong sách ấn
cho Hoàng tử. Ngay từ năm Gia Long thứ 16 (1817)
đã quy định lễ sách phong cho Hoàng thân công đều
làm sách ấn nền bạc mạ vàng, nhưng trên thực tế các
Hoàng thân có lúc được ban ấn bằng gỗ thơm chứ
không phải là vàng mạ cả. Như trường hợp Thiệu
Hóa Quận vương năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) được
ban sách bạc mạ vàng, 1 ấn bằng gỗ thơm, núm ấn
hình rồng vuông 2 tấc 3 phân 4 ly, dày 2 phân 7 ly.
Con trai của Thiệu Hóa Quận vương lại được ban ấn
bạc, sách chép rằng “Năm Minh Mệnh thứ 16 có nghị
chuẩn cho Thiệu Khê là con trưởng của Thiệu Hóa
Quận vương đã quá cố được tập phong làm Thiệu
Hóa Quận công… 1 quả ấn bạc núm hình kỳ lân,
vuông 2 tấc 7 ly, dày 2 phân 7 ly”[194].

Các Hoàng thân sau khi được phong sách ấn, nếu làm
tờ khải lên Hoàng đế thì xưng là thần và ấn dấu được
phong quy định phải đóng ở dưới chữ niên hiệu, nếu
có công văn truyền xuống dưới thì dùng chữ “giáo” ở
trên chữ “truyền sai” còn ấn dấu chỉ được đóng ở
dưới chữ hoàng hiệu thôi.


Ấn chương của Hoàng tử, Hoàng thân công tuy ở mỗi
phủ đệ riêng biệt nhưng vẫn phải tuân thủ theo quy
chế của phủ Tôn nhân cũng như Hoàng đế ban hành:
về việc cất giữ, niêm phong hòm ấn, chìa khóa hòm
ấn phải chính người được phong cất giữ. Mọi công
việc ở phủ nào thì đóng dấu Hoàng tử, vương công
phủ ấy, những quan hệ giữa các Hoàng tử, Hoàng
thân đối với chư nha, lục Bộ v.v… trong vấn đề văn
bản giấy tờ, đóng dấu cũng phải thực hiện đúng như
quy định.

Năm 1990 trong đợt công tác ở các tỉnh phía Nam
chúng tôi đã in chụp được một số ấn triện tại Bảo
tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh. Trong số ấn
triện đó có một quả ấn bằng đồng lớn của một vương
công thuộc Hoàng tộc triều Nguyễn, xin được giới
thiệu quả ấn đồng đó ở cuối đề mục này.

Ấn có ký hiệu BTLS 1262 chất liệu bằng đồng, hình
thể quả ấn đúc hình con kỳ lân ở thể đứng hơi khụy
chân sau, đầu và thân kỳ lân tròn có chạm hình xoáy
dáng nét rất đơn giản hơn nhiều so với Bảo Tỷ hình
rồng triều Nguyễn. Trên thành bệ con lân phía bên
trái khắc 5 chữ Hán Trọng tam cân ngũ lượng, phía
bên phải khắc 6 chữ Hán Hoài Đức Quận vương chi
ấn. Mặt ấn không thấy khắc dòng ghi niên đại. Mặt
dấu của ấn hình vuông có kích thước 7,8x7,8cm, viền
ngoài dấu để nét đậm cỡ 1,3cm. Bên trong khắc 6 chữ
Triện xếp theo 3 hàng, mỗi hàng 2 chữ, đó là sáu chữ
Hoài Đức quận vương chi ấn 懷德郡王之印. Đây là

ấn dấu của Hoài Đức Quận vương. (H. 124 a,b)

Việc xác định niên đại quả ấn là cần thiết vì mặt trên
ấn chỉ ghi trọng lượng nặng 3 cân 3 lạng mà không
ghi năm chế tạo ấn, đồng thời chúng tôi cũng muốn
xác định một cách chính xác về chủ sở hữu của quả
ấn này.

Từ thời Gia Long đã có việc phong tước lấy địa đanh
để đặt tên như thân vương thì lấy tên tỉnh đặt, quận
vương, thân công, quận công thì lấy tên phủ đặt;
huyện công, huyện hầu thì lấy tên huyện đặt; hương
công, hương hầu, đình hầu thì lấy tên xã đặt. Hoài
Đức Quận vương là vị Quận vương thời Nguyễn
được phong tước lấy tên phủ Hoài Đức để đặt[195].



Qua phả hệ của các vua Nguyễn, chúng tôi được biết
Hoài Đức Quận công Miên Lâm là con thứ 57 của
Thánh tổ Nhân Hoàng đế, sinh năm Minh Mệnh thứ
12 (1833), từ nhỏ đã thông minh hiếu học, giỏi kinh
sử. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) được tấn phong làm
Hoài Đức Quận công, năm Kiến Phúc thứ 1 (1884)
được thăng chức Tôn nhân phủ Tả Tôn nhân, sung
Phụ chính thân thần. Nước loạn ông một lòng trung
quân ái quốc được Hàm Nghi phong là Lạc Quốc
công, sau đổi phong là Hoài Đức công. Đời Đồng
Khánh ông giữ chức Tôn nhân phủ Hữu Tôn chính.
Đời Thành Thái thứ 1 (1889) sung làm Phụ chính

thân thần, đến mùa thu năm 1894 ông được tấn phong
làm Hoài Đức Quận vương. Năm Thành Thái thứ 9
(1897) ông qua đời thọ 67 tuổi thụy là Đoan Cung, có
đền thờ ở phường thứ 6 thuộc huyện Hương Trà,
Huế. Ông tính trời trung hậu, khiêm tốn, giữ lễ độ, có
công dạy con em trong Hoàng tộc được các triều vua
hậu đãi. Ông vừa là một đại thần vừa là người thân
tín của mấy đời vua Nguyễn lúc đó. Như vậy quả ấn
đồng Hoài Đức Quận vương chi ấn trên đã được xác
định rõ ràng. Chủ nhân của nó là Hoài Đức Quận
vương Miên Lâm, và ấn đã được làm ra vào mùa thu
năm Thành Thái thứ 6 (1894) thời gian mà Miên Lâm
được tấn phong làm Hoài Đức Quận vương.

×