Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Các hoàng đế Việt Nam quan tâm phát triển thủy quân ra sao? ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.31 KB, 18 trang )

Các hoàng đế Việt Nam quan tâm phát triển thủy
quân ra sao?
Thứ Tư, 08/06/2011, 04:07 CH | Lượt xem: 56
Thủy quân là một trong những lực lượng quan trọng
trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, đã góp phần lập nên
những chiến công oanh liệt trong lịch sử nước nhà.
Lực lượng thủy quân đã được nhiều vị hoàng đế nước
Việt quan tâm phát triển và có những câu chuyện thú
vị liên quan đến điều này mà không phải ai cũng rõ.

Hồ Quý Ly, hoàng đế đầu tiên cải cách thủy quân

Nhằm tăng cường hơn nữa sức chiến đấu của thủy
quân, sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đã tiến hành nhiều
cải cách quân sự. Về thủy quân, bên cạnh các loại
chiến thuyền theo mẫu cũ như lâu thuyền (thuyền
lầu), lưỡng phúc thuyền (thuyền hai đáy), mẫu tử
thuyền (gồm thuyền mẹ và thuyền con, chuyên dùng
đánh hỏa công)… ông còn bí mật cho đóng một loại
thuyền lớn là thuyền đinh sắt gọi là Trung tàu tải
lương, Cổ lâu thuyền tải lương.
Đến năm Giáp Thân (1404) con ông là Hồ Hán
Thương lúc này đã nối ngôi, tiếp tục cho làm nhiều
thuyền đinh sắt để phòng quân Minh.

Lâu thuyền

Loại thuyền Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải
lương có hai tầng, tầng trên lát ván sàn tiện cho việc
đi lại, chiến đấu. Tầng dưới chia làm hai ngăn với
nhiều khoang, phía trên để giấu lính, phía dưới dành


cho đội lính chèo với hàng dãy mái chèo dọc theo 2
bên thân thuyền. Điều đặc biệt, đây là loại thuyền vừa
vận tải quân lương, vừa được trang bị nhiều thần cơ
pháo khiến thủy binh của giặc Minh nhiều phen khiếp
đảm kinh hồn, bị nhiều tổn thất.

Tiếc thay, vì không được lòng dân ủng hộ nên cuộc
kháng chiến của nhà Hồ nhanh chóng thất bại, nước
ta bị giặc Minh đô hộ, lực lượng quân đội nói chung
và thủy quân nói riêng dù mạnh nhưng không đủ sức
cứu nổi vương triều này.

Lê Thái Tổ, hoàng đế đầu tiên quy định nghi thức,
cờ hiệu thủy quân

Ngay trong năm đầu tiên ở ngôi vua, Lê Thái Tổ đã
ban hành quy chế cụ thể cho lực lượng thủy quân
cũng như vũ khí cho binh lính.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vào ngày mồng
10 tháng 8 năm Mậu Thân (1428), vua “định các khí
vật như cờ xí, nghi trượng cho các quân, chiến khí và
thuyền ghe: trung đội cờ vàng, thượng đội cờ đỏ, hạ
đội cờ trắng. Mỗi vệ một lá cờ lớn của chủ tướng.
Mỗi quân một lá cờ hạng trung, 10 lá cờ đội và 40 lá
cờ nhỏ. Thuyền chiến dùng vào hỏa công 10 chiếc,
thuyền nhỏ đi tuần thám hai chiếc.

Ngoài ra, ống phun lửa loại đại tướng quân một
chiếc, loại lớn 10 chiếc, loại trung 10 chiếc, loại nhỏ

80 chiếc. Nỏ mạnh 50 cái, câu liêm 50 cái, giáo dài
50 cái, phi liêm 40 cái, mộc mỗi người một chiếc. Phi
tiêu hạng nhất dùng mỗi người bốn chiếc, hạng nhì
dùng mỗi người 3 chiếc; dao to mỗi người 1 con. Mỗi
quân dùng một người làm Sao quân (người thư lại
biên chép –TG), mỗi đội dùng một người làm Sao
đội”.

Sử sách còn cho biết ngoài trang phục chung giống
như các lực lượng khác, thủy quân thời Lê sơ đội nón
thủy ma và nón sơn đỏ để có sự phân biệt.

Lê Thánh Tông, người đầu tiên ban hành quân
lệnh thủy trận

Hoàng đế Lê Thánh Tông có lần nói với quần thần
rằng: “Phàm có nhà nước tất có võ bị”, do đó vua rất
quan tâm đến việc xây dựng quân đội để trấn áp nội
loạn và bảo vệ đất nước. Bên cạnh bộ binh, kị binh,
tượng binh… thì thủy binh cũng đã trở thành một
binh chủng độc lập với việc chia thành nhiều phiên
hiệu rõ ràng như: Thiện Hải thuyền, Đấu thuyền, Lâu
thuyền, Tẩu Kha thuyền, Khai Lãng thuyền, Hải Cốt
thuyền với hình dáng, cấu trúc, chạm khắc, màu sắc,
cờ hiệu khác nhau.


Hải cốt thuyền

Năm Ất Dậu (1465), lần đầu tiên phép duyệt thủy

trận và quân lệnh thủy trận được ban hành cụ thể,
sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Ban hành
phép duyệt tập trận đồ thủy bộ. Về thủy trận thì có
những đồ pháp như: Trung hư, Thường sơn xà, Mãn
thiên tinh, Nhạn hàng, Liên châu, Ngư đội, Tam tài
hành, Thất môn, Yến nguyệt Lại ban 31 điều quân
lệnh về thủy trận…”.

Chính nhờ sự quan tâm đến xây dựng quân đội, trong
đó có thủy binh nên thời Lê Thánh Tông, đội chiến
thuyền lớn nhất lịch nước ta đã được hình thành; vào
năm Kỷ Sửu (1469), Lê Thánh Tông đã huy động
một phần trong số đó đi chinh phạt Chiêm Thành.
Theo sử sách, ngoài lực lượng bộ binh thì có tới 25
vạn thủy quân và 5000 chiến thuyền do nhà vua đích
thân chỉ huy trong cuộc Nam chinh đó.

Lê Chân Tông từng sai thủy quân Bắc tiến, cứu
được vua Thanh

Khi thấy triều đình nhà Minh ngày càng suy yếu, phía
Bắc liên tục bị người Mãn Thanh tấn công uy hiếp,
nhận thấy đây là cơ hội có thể thu lại một số vùng đất
bị xâm lấn từ trước nên vào năm Bính Tuất (1646),
vua Lê Chân Tông sai Trịnh Lãm làm Thống lĩnh,
Ngô Sĩ Vinh làm Đốc đồng đem 300 chiến thuyền
vượt biển sang đánh Quảng Đông.

Tình cờ khi chiến thuyền Đại Việt tới, gặp lúc vua
Thanh đang bị quân Minh vây khốn, hai tướng liền

dẫn quân xung trận giúp giải vây. Sau này nhớ ơn
cứu mạng, vua Thanh Thế Tổ đã gửi vật phẩm ban
thưởng.

Riêng Ngô Sĩ Vinh vì có công lớn nhất nên vua
Thanh sai Đốc học Hứa Khải Mông mang sang tặng
ba bức trướng gấm và phong làm “Lưỡng quốc công
thần”. Ngoài ra còn có bài thơ tặng riêng vị tướng
này trong đó có câu: “…Cô ảnh thượng linh đao vị
đoạn/Ngưng nghiêm do hỷ phát như sơ/Mông hưu
cường hặng do kinh lộ/ Mộc ảnh cô can độc khoái
dư…” (Giáo thiêng bị chặn thân còn sống/Mái tóc y
nguyên vui chiến công/ Quân địch hùng cương đà run
sợ/ Công ông sáng tựa áng mây hồng).

Thủy quân của vua Gia Long khiến Anh quốc
kinh hoàng

Thủy quân nước Việt thời chúa Thượng (Nguyễn
Phúc Lan) đã đụng độ và đánh bại chiến thuyền của
Hà Lan, một trong những quốc gia có lực lượng thủy
quân hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Sự kiện
này được ghi chép nhiều trong các tài liệu, sách sử
của Việt Nam và cả của các nhà buôn, giáo sĩ phương
Tây. Tuy nhiên có một trận thủy chiến khác cũng
oanh liệt không kém nhưng ít được sử sách và người
đời nhắc đến. Trong trận chiến này, thủy quân Anh
quốc, cũng là một lực lượng hùng mạnh trên thế giới,
đã phải nếm mùi thất bại.


Theo sách Việt sử toàn thư, do nhiều lần đưa thư xin
ngoại giao, thông thương đều bị khước từ nên năm
Qúy Hợi (1803) nước Anh Cát Lợi (Anh) cho một
hạm đội gồm 7 chiếc tàu từ biển Đông theo đường
sông vào Hà Nội gây hấn, bị quân ta vây đánh, đốt
cháy nhưng không dám lên tiếng phản đối.

Một tài liệu khác là cuốn Thanh triều sử lược của Tá
Đằng Sở Tài thì cung cấp một thông tin rất thú vị:
“Bấy giờ người cầm đầu binh lính Anh Cát Lợi đóng
ở Ấn Độ nghe biết bên nước An Nam, họ Nguyễn
mới tân tạo, ở chỗ sơ hở có thể thừa cơ được, bèn
đem hơn 10 chiếc tàu chiến kéo vào cửa sông Phú
Xuân. Người An Nam rút hết thuyền núp ở trong nội
cảng. Vài trăm dặm không có bóng người…

Đêm đến, thình lình có tới 110 chiếc thuyền nhỏ tiến
ra miền hạ du của nội cảng, theo chiều gió thuận,
nhân dòng sông xuôi, đánh hỏa công. Người Anh
không có đường chạy! Bảy chiếc tàu vào trước đều bị
đốt cháy, những chiếc còn ở ngoài biển cũng sợ sệt
trốn nốt. Thẹn không dám về nước, bọn người Anh
ấy kéo sang Quảng Đông toan chiếm Áo Môn song
không trôi, lại rút đi”.

Vua Minh Mạng đóng tàu thuyền theo mẫu của
châu Âu

Minh Mạng là vị hoàng đế rất quan tâm đến việc học
hỏi, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật của phương

Tây, trong đó có việc cải tiến kỹ thuật đóng thuyền.
Không chỉ chú trọng gia tăng số lượng, mà vua còn
cho tăng chủng loại tàu thuyền. Theo sách Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ, năm Mậu Tý (1828) vua ấn
định số lượng các loại thuyền cần đóng ở các địa
phương.

Tinh thần tiến bộ của Minh Mạng được sử sách ghi
nhận rõ. Ví dụ cuốn Quốc sử di biên cho biết vào
tháng 4 năm Canh Dần (1830) “vua nghe nói ngoại
quốc có xe hỏa, tàu thủy và nhiều vật lạ, sai lũ
(Đặng) Khải đi Lã Tống, Tây dương để mua”.

Quy chế thủy quân cũng được Minh Mạng cải tiến,
ông định kích thước và kiểu dáng cho từng hạng
thuyền, thống nhất trong phạm vi cả nước để các
xưởng thuyền theo các quy thức đó mà đóng. Đặc
biệt, Minh Mạng đã cho đóng thuyền bọc đồng theo
mẫu của người Pháp. Vào năm Nhâm Ngọ (1822),
vua cho mua một chiếc thuyền bọc đồng của Pháp
đưa về Huế, đặt tên là Điện Dương, để làm mẫu cho
các xưởng đóng thuyền tại kinh đô nghiên cứu, triển
khai đóng theo mẫu.

Sách Khâm định Đại Nam thực lục cho biết tháng 6
năm ấy, vua “sai Thống chế thủy sư Phan Văn
Trường coi đóng thuyền hiệu theo kiểu Tây dương”.
Chiếc thuyền bọc đồng đầu tiên hoàn thành được đặt
tên là Thụy Long; sau đó hàng hoạt thuyền bọc đồng
được đóng thêm chủ yếu là thuyền chiến, một số là

thuyền dùng trong các chuyến công cán ở nước
ngoài.

Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết
thuyền bọc đồng được phân thành 4 hạng khác nhau
là hạng rất lớn, hạng lớn, hạng vừa, và hạng nhỏ.

Ngoài thuyền bọc đồng, năm Mậu Tuất (1838) Minh
Mạng cho mua một chiếc tàu máy hơi nước cũ của
Pháp đem về tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử,
đến tháng 4 năm sau chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên
của nước ta đóng xong và chạy thử thành công.
Tháng 10 cùng năm đó chiếc tàu máy hơi nước thứ 2
cũng được hoàn thành. Từ đó, vua xây dựng quy thức
đóng tàu máy hơi vào năm Canh Tý (1840) với “thân
rộng 7 thước 5 tấc, dài trên dưới 4 trượng, nhưng
thân không quá sâu, khoảng 1 trượng, để dễ dàng di
chuyển trên các dòng sông” (Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ).

Vua Thiệu Trị cho diễn tập đường thủy ra nước
ngoài

Lên ngôi đầu năm Tân Sửu (1841), Thiệu Trị tiếp tục
cho tiến hành đổi mới thủy quân như thời vua cha
Minh Mạng. Ông đã cho sửa chữa một số tàu, nâng
vận tốc lên cao hơn, cho đóng thêm 2 chiếc tàu máy
hơi nước và mua một chiếc tàu máy hơi nước mới dài
9 trượng 5 thước 7 tấc, rộng 1 trượng 5 thước 1 tấc,
sâu 6 thước, đặt tên là Điện Phi. Đây là chiếc tàu máy

hơi nước lớn nhất mà triều Nguyễn sở hữu.

Điều thú vị là với mục đích kiểm tra khả năng của tàu
thuyền bằng việc diễn tập thủy trình với tuyến đi xa,
kết hợp với hoạt động thương mại nên vào năm Bính
Ngọ (1846) vua Thiệu Trị sai Thị lang bộ Hộ là Tôn
Thất Thường và Lang trung Nguyễn Công Nghĩa
dùng thuyền lớn đi sang Giang Lưu Ba (Batavia
thuộc Indonesia ngày nay); Thự lang trung bộ Công
là Vũ Đình Ý và viên ngoại lang Đỗ Tuấn Đại đáp
thuyền to sang Tân Gia Ba (Singapore ngày nay) để
“diễn tập đường thủy, nhân tiện mua các thứ hàng
hóa”.

Vua Tự Đức thành lập đội tuần duyên đầu tiên

Trước sự hoành hành của cướp biển Tầu Ô, nhận thấy
thủy quân triều đình kém khả năng trong việc truy
quét cướp biển nên sau khi nhận được bản tấu của đại
thần Bùi Viện gửi ngày mồng 8 tháng 7 năm Bính Tý
(1876) đề nghị lập một “đội hải quân đi tuần khắp
miền duyên hải nước ta” với nhiệm vụ “vận tải lương
tiền của nhà nước, hộ vệ các nhà buôn và trừ diệt
những giặc bể còn đương hoành hành ở Đông hải”,
vua Tự Đức đã đồng ý cho lập lực lượng Tuần dương
quân thuộc Nha tuần hải do chính Bùi Viện phụ trách
với chức phong Thương chính tham biện kiêm Tuần
hải nha chánh quản đốc.

Lực lượng Tuần dương quân có quân luật riêng gồm

12 điều và được chia làm hai nhóm là Thanh đoàn đội
mũ vải mặc áo nẹp xanh và Thủy dũng đội nón dấu
mặc áo nẹp đỏ, thuyền của họ gọi là thuyền tuần
dương dùng để tuần tiễu, canh phòng mặt biển và
chống hải tặc. Tuần dương quân còn được bố trí tại
các chi điếm của Nha tuần hải ở nhiều thương cảng,
cửa biển trọng yếu.

Từ khi thành lập, Tuần dương quân đã giao chiến
nhiều trận với giặc biển Tầu Ô, có lần truy đuổi
chúng đến tận đảo Hải Nam. Dần dần các tuyến hàng
hải trở lại yên ổn, các cửa biển trở nên sầm uất, tàu
thuyền ra vào buôn bán ngày một nhiều. Tiếc rằng
lực lượng tuần duyên đầu tiên của nước ta tồn tại
không được lâu, ngay sau cái chết đột ngột của Bùi
Viện vào ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Dần
(1878), không ai có đủ khả năng và uy tín kế thừa vị
trí của ông nên lực lượng này đã tan rã nhanh chóng.

Lê Thái Dũng_baotanglichsu.vn

×