Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Giáo trình -Thổ nhưỡng học - chương 1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.84 KB, 24 trang )





LỜI NÓI ĐẦU



Giáo trình Thổ nhưỡng học được biên soạn cho sinh viên các
ngành khoa học đất, hoá nông nghiệp, môi trường, quản lý đất đai, cây
trồng, bảo vệ thực vật… làm tài liệu tham khảo cho sinh viên các ngành
khác, học viên cao học, nghiên cứu sinh và cán bộ ngành nông nghiệp.
Với tinh thần đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo và được sự
đồng ý của trường Đại học Nông nghiệp I, bộ môn Khoa học đất tái bản
giáo trình Thổ nhưỡng học (xuất bản năm 2000) có sửa đổi, bổ sung, cập
nhật thông tin, thay đổi cách trình bày và được phân công chịu trách
nhiệm như sau:
PGS.TS. Trần Văn Chính: Chương VIII, IX, X, XV và một phần
chương III.
TS. Cao Việt Hà: Chương VI và VII.
TS. Đỗ Nguyên Hải: Chương XI, XII và XVI
ThS. Hoàng Văn Mùa: Chương I, II và XVII.
PGS. TS. Nguyễn Hữu Thành: Chương IV, V, XIII và XIV.
PGS.TS. Nguyễn Xuân Thành: một phần chương III.
Hiệu đính và chủ biên lần tái bản này: PGS.TS. Trần Văn Chính

Bám sát yêu cầu đào tạo, các tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu
trong và ngoài nước, các kết quả nghiên cứu gần đây. Tuy nhiên, do
trình độ và thời gian có hạn nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong
nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc.


Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về địa chỉ:

Bộ môn Khoa học đất - Trường Đại học Nông nghiệp I - Gia Lâm -
Hà Nội
Telephone: 04 8769272
Email:


Bài mở đầu
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THỔ NHƯỠNG

1. Khái niệm về đất và độ phì nhiêu
Trên mặt địa cầu có chỗ là một khối rắn chắc, có chỗ là bãi cát
mênh mông hoang mạc, có chỗ cây cối mọc xanh tươi bát ngát. Loài
người gọi vùng thứ nhất là đá (nham thạch), vùng thứ hai là sa mạc và
vùng thứ ba là thổ nhưỡng. Như vậy thổ nhưỡng là đất mặt tơi xốp của
vỏ lục địa, có độ dầy khác nhau, có thể sản xuất ra những sản phẩm của
cây trồng. Nguồn gốc của đất là từ các loại "đá mẹ” nằm trong thiên
nhiên lâu đời bị phá huỷ dần dần dưới tác dụng của yếu tố lý học, hoá
học và sinh học. Tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa "đá mẹ" và đất là
độ phì nhiêu, nếu chưa có độ phì nhiêu, thực vật thượng đẳng chưa sống
được thì chưa gọi là thổ nhưỡng.
Thổ nhưỡng học là khoa học nghiên cứu đất nhằm giải quyết
những vấn đề quan trọng của sản xuất xã hội có liên quan đến đất. Do
yêu cầu sử dụng đất khác nhau, loài người đã dùng các phương pháp
nghiên cứu đất khác nhau và lích luỹ được rất nhiều kiến thức về đất.
Nhưng cũng có các nhận thức khác nhau về đất. Thí dụ đối với các công
trình xây dựng nhà cửa, đường sá, thuỷ lợi thì đất chỉ là nguyên liệu chịu
lực cho nên các cán bộ thuỷ lợi và xây dựng thường coi đất là một loại
nguyên liệu, chỉ quan tâm đến các tính chất vật lý và cơ lý của đất. Còn

trong sản xuất nông nghiệp đất là cơ sở sinh sống và phát triển cây
trồng. Cây trồng có thể sống trên đất là nhờ độ phì nhiêu. Độ phì phát
huy được tác dụng nhờ các yếu tố bên trong của đất (môi trường tự
nhiên của khu vực và yếu tố kỹ thuật canh tác).
Muốn có nhận thức đúng đắn về đất trồng cần phải nắm vững quan
điểm độ phì làm trung tâm. Nhờ có độ phì mà đất trở thành đối tượng
canh tác của loài người là tư liệu sản xuất cơ bản của nông nghiệp và là
cơ sở để thực vật sinh trưởng và phát triển. Bởi vì độ phì nhiêu là khả
năng của đất có thể cung cấp cho cây đồng thời và không ngừng cả nước
lẫn thức ăn", khả năng đó nhiều hay ít (tức độ phì cao hay thấp) do các
tính chất lý học, hoá học và sinh học đất quyết định; ngoài ra còn phụ
thuộc vào điều kiện thiên nhiên và tác động của con người.
Như vậy độ phì không phải là số lượng chất dinh dưỡng tổng số
trong đất mà là khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây nhiều hay ít.
Ðó là một chỉ tiêu rất tổng hợp, là sự phản ánh tất cả các tính chất của
đất vì thế cần có quan điểm toàn diện. Ðã có nhiều quan điểm khác nhau
về độ phì đất. Ricacđô và các nhà khoa học phương Tây cho rằng: "độ
phì đất giảm dần". Các nhà Thổ nhưỡng Liên Xô (cũ) mà đại diện là
Viliam thì cho rằng "độ phì đất không ngừng tăng lên, không có đất nào
xấu mà chỉ có chế độ canh tác tồi mà thôi". Các Mác khi bàn về vấn đề
địa tô đã chia độ phì đất làm 5 loại là: độ phì thiên nhiên, độ phì nhân
tạo, độ phì tiềm tàng, độ phì hiệu lực và độ phì kinh tế.

2. Nguồn gốc và thành phần cơ bản của đất
Các loại đá nằm trong thiên nhiên chịu tác dụng lý học, hoá học và
sinh học dần dần bị phá huỷ thành một sản phẩm được gọi là mẫu chất.
Trong mẫu chất mới chỉ có các nguyên tố hoá học chứa trong đá mẹ sinh
ra nó, còn thiếu một số thành phần quan trọng như chất hữu cơ, đạm,
nước vì thế thực vật thượng đẳng chưa sống được. Trải qua một thời
gian dài nhờ tác dụng của sinh vật tích luỹ được chất hữu cơ và đạm,

thực vật thượng đẳng sống được, có nghĩa là đã hình thành thổ nhưỡng.
Như vậy có thể nói nguồn gốc ban đầu của đất là từ đá mẹ. Thí dụ ở
nước ta có đất nâu đỏ trên đá bazan, đất nâu đỏ trên đá vôi, đất vàng đỏ
trên phiến thạch sét hoặc đá biến chất như phiến thạch Mica, Gơnai
Dù là đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất đồng cỏ, thậm chí đất
hoang đều gồm có các thành phần cơ bản sau đây:

Chất vô cơ
- Chất rắn Chất hữu cơ
Thổ nhưỡng - Khe hở giữa các hạt Không khí
Nước
- Các loài sinh vật
Trong đó:
* Chất vô cơ do đá phá hủy tạo thành chiếm 95%
trọng lượng hay 38% thể tích của chất rắn.
Không khí
Nước

Ch

t
vô cơ
Ch
ất
hữu

* Chất hữu cơ do xác sinh vật phân huỷ chiếm dưới 5% trọng lượng
hoặc 12% thể tích chất rắn.
* Không khí một phần từ khí quyển nhập vào (O
2

+ N
2
) hoặc do đất sinh
ra (CO
2
và hơi nước).
* Nước chủ yếu do từ ngoài nhập vào, vì có hoà tan nhiều chất cho nên
nước trong đất thực chất là dung dịch đất.
* Sinh vật trong đất có nhiều loài như côn trùng, giun, nguyên sinh động
vật, các loài tảo và một số lượng rất lớn vi sinh vật.
Những thành phần trên có thể rất khác nhau về tỷ lệ phối hợp. Thí
dụ trong đất than bùn hàm lượng chất hữu cơ có thể tới 70-80%. Ngược
lại trong đất cát, hoặc đất xói mòn trơ sỏi đá không có thực bì che phủ
thì hàm lượng chất hữu cơ chỉ có mấy phần nghìn mà thôi. Không khí và
nước trong đất cũng thay đổi rất nhiều bởi vì hai thành phần này tồn tại
trong các khe hở của đất, nó không những phụ thuộc độ chặt, độ xốp mà
còn phụ thuộc độ ẩm của đất. Cả hai thành phần này cộng lại có thể
chiếm trên 50% thể tích đất.
Cần quan tâm đến thành phần sinh vật, đặc biệt là vi sinh vật bởi vì
hầu hết các quá trình biến hoá phức tạp xảy ra trong đất đều có sự tham
gia của vi sinh vật. Với nội dung của giáo trình, ở đây chỉ đề cập đến ảnh
hưởng của vi sinh vật đến đất.

3. Ðất là cơ sở sinh sống và phát triển thực vật, là tư liệu sản xuất cơ
bản của nông nghiệp
Ðặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp là tạo ra chất hữu cơ
trong đó có sản xuất thực vật. Trong cuộc sống thực vật cần có đủ 5 yếu
tố là ánh sáng (quang năng), nhiệt lượng (nhiệt năng), không khí (O
2


CO
2
), nước và thức ăn khoáng. Trong đó 3 yếu tố đầu do thiên nhiên
cung cấp (yếu tố vũ trụ), nước vừa do thiên nhiên vừa do đất cung cấp,
còn thức ăn khoáng gồm rất nhiều nguyên tố như N, P, K, S, Ca, Mg và
các nguyên tố vi lượng là do đất cung cấp. Như vậy những năm thời tiết
khí hậu bình thường, trong điều kiện cùng một loại giống và trình độ
canh tác tương tự thì năng suất cây trồng trên các loại đất cao hay thấp
nói chung phụ thuộc vào khả năng cung cấp thức ăn của đất. Ngoài ra
đất còn là nơi để cho cây cắm rễ, "bám trụ" không bị nghiêng ngả khi
mưa to gió lớn.
Một loại đất được gọi là tốt phải bảo đảm cho thực vật "ăn no"
(cung cấp kịp thời và đầy đủ thức ăn), "uống đủ" (chế độ nước tốt), "ở
tốt" (chế độ không khí và nhiệt độ thích hợp) và "đứng vững" (rễ cây có
thể mọc rộng và sâu).
Sản xuất nông nghiệp bao gồm 2 nội dung lớn là: sản xuất thực vật
(trồng trọt) và sản xuất động vật (chăn nuôi). Chúng ta biết rằng nếu
không có thực vật hút thức ăn trong đất qua tác dụng quang hợp biến
thành chất hữu cơ thực vật thì động vật không thể có nguồn năng lượng
cần thiết để duy trì cuộc sống của chúng. Bởi vậy đất không những là cơ
sở sản xuất thực vật mà còn là cơ sở để sản xuất động vật. Trồng trọt
phát triển thì chăn nuôi cũng phát triển.

4. Ðất là một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái
Sinh thái học là môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa các
sinh vật với môi trường. Trên địa cầu có vô số sinh vật, các sinh vật này
cùng với môi trường của chúng tạo thành sinh quyển. Sinh quyển do
nhiều hệ sinh thái tạo thành. Mỗi hệ sinh thái có tổ hợp sinh vật riêng
của nó. Trong môi trường thiên nhiên của một vùng thì động vật, vi sinh
vật, thổ nhưỡng làm thành một hệ sinh thái. Đó là một bộ phận quan

trọng trong hệ sinh thái của vùng. Mặt khác tình hình đất của một vùng
lại có quan hệ với những yếu tố khác cấu tạo nên hệ sinh thái của vùng
đó, giữa chúng có quan hệ điều tiết cân bằng lẫn nhau và khống chế
nhau. Vì vậy, trong khoa học môi trường, đất không những là tư liệu sản
xuất cơ bản của nông nghiệp mà còn được coi là một bộ phận quan trọng
của hệ sinh thái một vùng. Ðất có ý nghĩa quan trọng đối với loài người
tương tự như nước, không khí, sinh vật và khoáng sản.
Loài người sống trong môi trường thiên nhiên, luôn tìm cách cải
tạo môi trường xung quanh để phù hợp với yêu cầu của sản xuất và cuộc
sống, lập nên cân bằng động của hệ sinh thái. Nhưng mặt khác sự hoạt
động của loài người cũng có lúc phá huỷ cân bằng sinh thái thiên nhiên
mà hậu quả là những tổn thất không bù đắp được. Thí dụ hậu quả của ô
nhiễm đất không những gây nên tình trạng hoang hoá đất, thay đổi hệ
sinh thái đất từ đó làm thay đổi hệ sinh thái đồng ruộng, thậm chí có thể
dẫn đến sự hủy diệt một số sinh vật trong vùng. Ô nhiễm đất còn có thể
gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và gia súc.
Những năm gần đây, khoa học môi trường đã đòi hỏi công tác thổ
nhưỡng có biện pháp giám định, phòng ngừa và xử lý ô nhiễm đất, định
ra tiêu chuẩn làm sạch hoá đất. Từ đó ta thấy Thổ nhưỡng học cận đại đã
có sự phát triển mới, nó đã trở thành một bộ phận quan trọng trong khoa
học môi trường.
Từ những ý nghĩa trên, việc sử dụng đất không những căn cứ vào
yêu cầu của nền kinh tế quốc dân và sự phát triển nông nghiệp mà còn
phải xuất phát từ góc độ khoa học môi trường, chú ý đến vấn đề cân bằng
động trong toàn bộ hệ sinh thái tự nhiên. Nếu đất phù hợp với nông
nghiệp thì làm nông nghiệp, phù hợp với lâm nghiệp thì phát triển rừng.
Ðất phù hợp với chăn nuôi thì phát triển đồng cỏ Ðối với những vùng
đất bị ô nhiễm nghiêm trọng thì cấm trồng cây lương thực thực phẩm
hoặc chăn thả gia súc mà nên chuyển sang trồng cây lâm nghiệp hoặc cây
lấy gỗ. Ðối với quản lý đồng ruộng cần lưu ý phòng chống ô nhiễm do

thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ hoặc ảnh hưởng của nước thải công nghiệp.
Ðối với khai hoang cần chú ý chống xói mòn đất và khô cằn đất làm ảnh
hưởng đến toàn bộ hệ sinh thái của khu vực.

5. Ðối tượng và nhiệm vụ của thổ nhưỡng học
Thổ nhưỡng học là môn khoa học nghiên cứu đất trồng. Ðây là một
môn khoa học cơ sở nhằm trang bị cho học viên kiến thức về nguồn gốc
hình thành đất, quy luật phân bố các loại trên địa cầu, những đặc tính về
hình thái, lý học, hoá học và sinh học đất cùng với phương hướng sử
dụng, cải tạo và bảo vệ nhằm nâng cao độ phì đất để cây trồng đạt năng
suất cao và ổn định.
Ðể học tốt môn Thổ nhưỡng học cần có những kiến thức nhất định
về địa chất, thực vật, vi sinh vật, sinh lý, thực vật, toán, lý và nhất là hoá
học. Mặt khác, trên cơ sở đã học môn Thổ nhưỡng học viên sẽ có điều
kiện học tốt các môn chuyên môn có liên quan như nông hoá học, thuỷ
nông, đánh giá đất, định giá đất, quy hoạch đất, cây công nghiệp, cây
lương thực, rau quả, bảo vệ thực vật
Muốn đánh giá đất đầy đủ cần phối hợp giữa kết quả khảo sát đất ở
thực địa, phân tích đất trong phòng thí nghiệm với kết quả thí nghiệm
đồng ruộng và trong chậu. Ngoài ra cần tổng kết kinh nghiệm quần
chúng.
Chương I
KHOÁNG VẬT VÀ ĐÁ HÌNH THÀNH ĐẤT

Vỏ Trái Ðất được cấu tạo bởi các loại đá khác nhau, một loại đá
thường được cấu tạo bởi một số khoáng vật nhất định. Ðá và khoáng vật
ở lớp ngoài cùng của vỏ Trái Ðất bị phá huỷ tạo thành mẫu chất, do tác
động của sinh vật mẫu chất biến đổi tạo thành đất. Vậy khoáng vật và đá
là cơ sở vật chất để hình thành nên đất.


1. Khoáng vật
1.1. Khái niệm chung về khoáng vật
Theo địa chất học: khoáng vật là sản phẩm tự nhiên của các quá
trình hoá lý và các quá trình địa chất diễn ra trong vỏ Trái Ðất, có thành
phần tương đối đồng nhất và có những tính chất vật lý, hoá học nhất
định.
Khoáng vật tồn tại ở 3 thể: rắn, lỏng và khí, trong đó chủ yếu ở thể
rắn. Khoáng vật thể rắn hình thành và tồn tại ở 2 dạng cơ bản là kết tinh
tạo thành các tinh thể và vô định hình, hầu hết khoáng vật ở dạng tinh
thể. Hình dạng tinh thể do sự liên kết theo quy luật của các nguyên tử,
ion hoặc phân tử tạo nên các mạng lưới tinh thể.










a. Muối mỏ b. Thạch anh
Hình 1.1. Mạng lưới tinh thể và hình dạng một số khoáng vật

Na

Cl

Các khoáng vật khác nhau có: hình dạng, kích thước, độ cứng, tỷ
trọng, màu sắc, cát khai, vết vỡ, thành phần hoá học rất khác nhau, đây

cũng là những dấu hiệu để nhận biết và phân loại khoáng vật trong tự
nhiên.
Tuỳ điều kiện hình thành mà một khoáng vật có kích thước khác
nhau. Ví dụ: Khoáng vật mica là những tấm mỏng có kích thước từ vài
mm
2
đến hàng m
2
.
Một số khoáng vật có cùng thành phần nhưng kết tinh ở mạng lưới
tinh thể khác nhau tạo nên khoáng vật có tính chất vật lý khác xa nhau.
Ví dụ: Than chì và kim cương có cùng thành phần hoá học là C nhưng
kết tinh ở mạng tinh thể khác nhau mà than chì có độ cứng 1, kim cương
có độ cứng 10.
Hiện nay đã xác định được trên 3000 loại khoáng vật có trong vỏ
Trái Ðất.
Theo Chetvericốp, toàn bộ khoáng vật có trong vỏ Trái Ðất nằm
trong 10 lớp:
- Silicát
- Cácbonát
- Oxyt
- Hydroxyt
- Sunphua
- Sunphat
- Haloit
- Phosphat
- Vonfranat
- Nguyên tố tự nhiên
Một số tác giả đề nghị ghép lớp Sunphua với Sunphát thành lớp
khoáng vật có lưu huỳnh Dựa vào nguồn gốc thành tạo, các khoáng vật

nằm trong 2 nhóm lớn là khoáng vật nội sinh và khoáng vật ngoại sinh.
Có khoảng 50 khoáng vật chiếm tỷ lệ lớn trong các loại đá ở vỏ Trái Ðất
được gọi là khoáng vật chính tạo đá.
Trong thổ nhưỡng học, khoáng vật được chia làm 2 nhóm: khoáng
vật nguyên sinh và khoáng vật thứ sinh. Khoáng vật nguyên sinh được
hình thành đồng thời với sự hình thành đá. Ví dụ: thạch anh, Fenspat,
mica trong đá Granít là các khoáng vật nguyên sinh.
Khoáng vật thứ sinh được hình thành do quá trình biến đổi như các
quá trình phong hoá, các hoạt động địa chất.v.v. Do vậy khoáng vật thứ
sinh gặp nhiều trong mẫu chất và đất như oxyt, hydroxit, các keo
sét.v.v
Sự phân biệt khoáng vật nguyên sinh với thứ sinh có tính chất
tương đối. Thạch anh trong đá Granít là nguyên sinh, khi granít bị phong
hoá cho ra thạch anh là khoáng thứ sinh, nhưng thạch anh thứ sinh lại là
thành phần chính tạo đá trầm tích là cát kết nên nó cũng là khoáng
nguyên sinh trong đá cát
Các khoáng vật có thể tồn tại độc lập hoặc liên kết với nhau trong
những quá trình địa chất nào đó để tạo thành đá. Vì vậy khoáng vật là
thành phần vật chất cơ bản cấu tạo nên vỏ Trái Ðất.
Nhiều khoáng vật là nguồn tài nguyên khoáng sản rất có giá trị đối
với con người.
1.2. Một số loại khoáng vật trong vỏ Trái Ðất
a. Lớp Silicát
Silicát là lớp khoáng vật gặp nhiều nhất trong vỏ Trái Ðất, có khoảng
1500 loại khoáng vật của vỏ
Trái Ðất nằm ở lớp này. Theo
viện sĩ A.Phecxman, lớp
Silicát chiếm 75 % trọng
lượng vỏ Trái Ðất, nhiều
khoáng vật của lớp này là

khoáng vật chính tạo đá.
Ðơn vị cơ sở cấu tạo
nên khoáng vật lớp Silicát là
khối 4 mặt Silic-oxy có công thức [SiO
4
]
4-
với 1 nguyên tử Silic nằm
giữa 4 nguyên tử oxy nằm ở 4 đỉnh.
Các khối [SiO
4
]
4-
có thể ghép nối với nhau theo các phương để tạo
thành các lớp Silicát phụ là Silicát dải, Silicát đảo, Silicát khung Ngoài
ra do thừa 4 hoá trị âm nên có thể liên kết với nhiều nguyên tố khác ở
dạng cation như Ca
2+
, Mg
2+
, K
+
, Na
+
Ðặc biệt, Silic trong khối 4 mặt
có thể được thay thế bởi Al (thay thế đồng hình khác chất) tạo thành
nhôm Silicát (alumino Silicát). Sau đây là một số khoáng vật điển hình:
Ôlivin [(Mg,Fe)
2
.SiO

4
]
Màu xanh ô liu, độ cứng 6,5 - 7,0, tỷ trọng 3,3 - 4,0, ánh thuỷ tinh,
vết vạch không màu, cát khai trung bình. Kết tinh ở dạng khối hay dạng
hạt.
Nguyên t
ử Silic

Nguyên t
ử oxy

Hình 1.2: Cấu tạo của khối 4 mặt
oxit silic, khoảng cách Si-O
2
là 1,6 Ǻ


Ôlivin có nguồn gốc từ hoạt động macma, là khoáng vật chính tạo
thành các đá macma siêu bazơ, macma bazơ như: Ðunit, Peridotit,
gabro, bazan Trong các quá trình biến đổi hậu sinh chuyển thành
Secpentin, Tan, Manhetit, Limonít và Ôpan.
Ôlivin đẹp được sử dụng làm đồ trang sức, loại chứa nhiều Mg
(45-50% MgO) dùng sản xuất gạch chịu lửa. Ở Việt Nam Ôlivin gặp ở
núi Nưa - Thanh Hoá, Phủ Quỳ - Nghệ An, Tây Nguyên
Mica trắng và đen
Mica trắng có công thức hoá học: K.Al
2
[(Al.Si
3
.O

10
)].[OH]
2
giàu

K
Mica đen có công thức hoá học: K(Mg,Fe)
3
[Si
3
AlO
10
][OH,F]
2

Trong thành phần Mica đen có chứa nhiều Fe, Mg.
Các khoáng mica kết tinh ở dạng dẹt, tấm, vảy; Ðộ cứng 2-3; Tỷ
trọng 2,7-3,1. Ánh thuỷ tinh hoặc xà cừ; cát khai rất hoàn toàn dễ tách
thành tấm mỏng; màu sắc thay đổi từ trắng đến vàng, xám và đen. Mica
có nguồn gốc từ hoạt động macma rất phổ biến trong đá macma axit như
granít, ngoài ra còn gặp trong đá biến chất như đá phiến mica, đá trầm
tích cơ học như đá cát Khi bị phá huỷ mica tạo thành Hyđromica,
Kaolinít, Hydroxyt
Fenspat
Là một nhóm khoáng vật rất phổ biến, chiếm khoảng 50 % trọng
lượng vỏ Trái Ðất. Trong thành phần Fenspat còn có các nguyên tố kiềm
và kiềm thổ và được chia làm các nhóm phụ như octoclaz, plazoclaz.
Fenspat có độ cứng 6,0-6,5; Tỷ trọng 2,6-2,8; Màu trắng, hồng,
xám hay đen; cát khai hoàn toàn theo 2 phương.
Fenspat có nguồn gốc macma, là thành phần chính của các loại đá

macma. Khi bị phong hoá, Fenspat tạo thành Kaolinít, oxyt và các loại
muối kiềm và kiềm thổ.
Ôgít Công thức Ca(Mg, Al, Fe)(Si,Al)
2
O
6

Ðộ cứng 5-6. Tỷ trọng 3,2-3,6. Màu đen, lục hay nâu. Ánh thuỷ
tinh; cát khai trung bình. Tinh thể dạng lăng trụ ngắn, tấm hoặc khối hạt
đặc sít. Ôgít hình thành do hoạt động macma, là thành phần chính của đá
macma bazơ như bazan, gabrô
b. Lớp Cácbônát
Lớp khoáng vật này khá phổ biến, là muối của axit H
2
CO
3
.
Khoáng vật lớp này giòn, độ cứng nhỏ, dễ hoà tan trong nước và sủi bọt
khi tác động với HCl.
Canxit - Công thức CaCO
3

Kết tinh ở nhiều dạng tinh thể như khối mặt thoi, hình hộp chữ
nhật lệch, hình tháp, hình lăng trụ hoặc tập hợp hạt đặc sít. Ðộ cứng 3, tỷ
trọng 2,6-2,8. Ánh thuỷ tinh; màu trắng, xám, vàng, nâu, lục, lam. Cát
khai hoàn toàn theo 3 phương. Sủi bọt mạnh khi tác động với axit HCl.
Canxít được hình thành do hoạt động địa chất ngoại sinh hoặc xác sinh
vật có chứa nhiều CaCO
3
. Canxít là thành phần khoáng vật chủ yếu tạo

đá vôi. Canxít là nguyên liệu để sản xuất vôi, xi măng, làm chất cải tạo
phản ứng chua cho đất.
Ðôlômít: Công thức (Ca, Mg)[CO
3
]
2

Ðược hình thành do Mg thay thế Ca trong CaCO
3
. Ðộ cứng 3,5-
4,0. Tỷ trọng 1,8-2,9. Ánh thuỷ tinh. Màu trắng, vàng, xám, lục, đen.
Không sủi bọt khi tác động với HCl ở nhiệt độ thường. Gặp Ðôlômít
trong đá vôi hoặc tạo thành các khối riêng. Ðôlômít được dùng sản xuất
gạch chịu lửa, sản xuất phân bón
c. Lớp Oxit
Khoáng vật lớp này gồm tất cả các oxyt. Lớp Oxyt có 200 khoáng
vật chiếm khoảng 17 % trọng lượng vỏ Trái Ðất.
Thạch anh: Công thức SiO
2

Rất phổ biến trong vỏ Trái Ðất. Ðộ cứng 7. Tỷ trọng 2,5 - 2,8.
Ánh thuỷ tinh. Màu trắng, vàng, tím, đen, hồng hoặc trong suốt. Thạch
anh gặp ở dạng khối đặc hoặc vụn, tinh thể có hình lăng trụ với 2 chóp 6
mặt. Thạch anh rất phổ biến trong đá macma axit, siêu axit, đá biến chất
và đá trầm tích.
Thạch anh là khoáng vật bền, rất khó bị phong hoá hoá học.
Hematit: Công thức Fe
2
O
3


Là quặng sắt đỏ, màu vết vạch như màu của máu. Ðộ cứng 5,5-6,0.
Tỷ trọng 5,2. Ánh kim hay phi kim. Màu đỏ rượu vang, xám, sẫm, đen.
Kết tinh tạo khối hạt đặc sít hay trứng cá. Hêmatít có nguồn gốc biến
chất hoặc phong hoá hoá học đá macma siêu bazơ.
d. Lớp Hydroxyt
Khoáng vật lớp này là những hợp chất hoá học có thành phần là
kim loại và gốc - OH
-
.
Hydragilit: Công thức Al(OH)
3

Ðộ cứng 2,5-3,5. Tỷ trọng 2,34. Màu trắng, xám, phớt lục, phớt đỏ.
Ánh thuỷ tinh. Tinh thể dạng tấm lục giác, vảy mỏng hoặc khối ẩn tinh.
Hydragilit được hình thành do sự phong hoá các khoáng nhôm
silicát.
e. Lớp khoáng vật có lưu huỳnh
Khoáng vật lớp này là hợp chất của kim loại với lưu huỳnh hoặc là
muối của axit H
2
SO
4
.
Pyrit: Công thức FeS
2

Tiếng Hylạp "pyros" có nghĩa là lửa, màu khoáng vật này giống
màu của lửa nên được gọi tên là pyrit.
Ðộ cứng 6,0 - 6,5. Tỷ trọng 5. Màu vàng rơm. Không cát khai.

Tinh thể hình khối lập phương điển hình, Pyrit có nguồn gốc từ hoạt
động macma hoặc biến chất. Pyrit là nguyên liệu để điều chế axít H
2
SO
4
.
Trong đất phèn, sắt có thể tác động với các hợp chất có lưu huỳnh
như H
2
S để tạo FeS
2
, gặp điều kiện oxy hoá FeS
2
bị biến đổi tạo thành
phèn sắt Fe
2
(SO
4
)
3
, phèn sắt dễ thuỷ phân khi gặp nước tạo thành H
2
SO
4

và Fe(OH)
3
kết tủa làm cho đất có phản ứng rất chua.
Anhydrit: công thức CaSO
4


Ðộ cứng 3,0 -3,5. Tỷ trọng 2,8-3,0. Ánh thuỷ tinh. Màu trắng, xám
hay hơi đỏ. Cát khai hoàn toàn theo 3 phương. Anhydrit kết tủa từ nước
biển khi nhiệt độ trên 42
o
C hoặc kết tủa từ dung dịch có nồng độ bão
hoà. Anhydrit thường tập hợp đông đặc tinh thể nhỏ cùng với thạch cao
hoặc muối mỏ.
Trong nông nghiệp CaSO
4
dùng để cải tạo đất mặn kiềm.
g. Lớp Haloit (lớp muối mỏ)
Khoáng vật lớp này là những muối của HF, HCl, HBr, HI với kim
loại.
Synvinit: Công thức KCl
Ðộ cứng 2. Tỷ trọng 2,1-2,2. Rất giòn và cát khai hoàn toàn. Ánh
thuỷ tinh. Màu trắng hoặc trong suốt, nếu lẫn tạp chất sẽ có màu xám,
vàng, đỏ. Tinh thể kết tinh dạng khối lập phương. Hình thành do sự kết
tủa từ nước biển khi bị khô cạn hay bão hoà muối tan.
Synvinit là nguyên liệu sản xuất phân Kali.
Cácnalit: Công thức KCl.MgCl
2
.6H
2
O
Ðộ cứng 1,0-2,5. Tỷ trọng 1,6. Màu trắng, nâu, hồng, đỏ. Cácnalit
có nguồn gốc từ trầm tích biển thường cùng gặp với NaCl, KCl.
Cacnalit dùng điều chế phân Kali và điều chế manhê.
h. Lớp phosphat
Khoáng vật lớp này là những muối phức tạp có chứa phospho.

Apatit: công thức Ca
5
(PO
4
)
3
(F,Cl)
Ðộ cứng 5. Tỷ trọng 3,2. Ánh thuỷ tinh. Màu trắng, vàng, lục, lam.
Tinh thể hình lăng trụ, hình kem hay hình tấm thường tập hợp tạo khối
đặc sít.
Apatit được hình thành trong hoạt động macma và hoạt động ngoại
sinh.
Apatit là nguyên liệu sản xuất phân lân dùng trong sản xuất nông
nghiệp.
Việt Nam có mỏ Apatit với trữ lượng lớn ở Cam Ðường- Lào Cai.
Phosphorit: Công thức Ca
5
(PO
4
)P.
Phosphorit có thành phần tương tự Apatit nhưng thường lẫn nhiều
tạp chất hơn. Phosphorit hình thành trong các hang đá vôi do xác sinh
vật chết từ lâu hoặc quá trình sinh hoá ở vùng biển cạn có nhiều chất
hữu cơ tích luỹ. Ở một số vùng nhân dân ta gọi là phân lèn gặp trong các
lèn (núi) đá vôi.
Phosphorit có công dụng như Apatit.
i. Nguyên tố tự nhiên
Nguyên tố tự nhiên là những khoáng vật chỉ có một nguyên tố hoá
học là kim loại hoặc á kim.
Nguyên tố tự nhiên là những khoáng sản rất quý như vàng (Au),

bạc (Ag), kim cương (C), lưu huỳnh (S)

2. Ðá
2.1. Ðịnh nghĩa và phân loại đá
Ðá là một tập hợp nhiều hoặc một khoáng vật, là thành phần vật
chất chủ yếu cấu tạo nên vỏ Trái Ðất.
Ngành khoa học chuyên nghiên cứu về các loại đá cấu tạo nên vỏ
Trái Ðất gọi là nham thạch hay thạch học.
Theo nhà thạch học lỗi lạc người Ðức Rozenbút thì chỉ có những
tập hợp khoáng vật tạo thành những thể địa chất độc lập mới được gọi là
đá. Một thể địa chất độc lập phải có đủ các điều kiện sau:
- Phân biệt rõ với các khối xung quanh và được thành tạo do những quá
trình địa chất riêng.
- Có thành phần khoáng vật, hoá học xác định và khác với các khối
bao quanh.
- Các thành phần tạo đá có phương thức kết hợp riêng.
Ðá do nhiều loại khoáng vật tạo nên gọi là đá đa khoáng, do một
loại khoáng vật gọi là đá đơn khoáng. Ðá bị phong hoá để tạo thành đất
gọi là đá mẹ.
Theo nguồn gốc hình thành, toàn bộ đá cấu tạo nên vỏ Trái Ðất
nằm trong 3 nhóm lớn là: Ðá macma, đá trầm tích và đá biến chất. Trong
từng nhóm chính lại chia ra nhiều nhóm nhỏ hơn. Ví dụ: nhóm đá
macma có các nhóm phụ là macma siêu axit, macma axit, macma trung
tính
2.2. Ðá macma
a. Ðịnh nghĩa và phân loại đá macma
Ðá macma là những đá được hình thành do sự đông cứng của dung
dịch macma. Nếu dung dịch macma đông cứng dưới sâu (trong vỏ Trái
Ðất) tạo đá macma xâm nhập, ngược lại dung dịch macma phun trào ra
phía ngoài mặt vỏ Trái Ðất rồi đông cứng lại thì tạo nên đá macma phun

trào.
Ðá macma có nhiều loại khoáng vật khác nhau, có kiến trúc và cấu
tạo phức tạp. Trong vỏ Trái Ðất đá nằm ở nhiều thể: tường mạch, nền,
trụ, nấm, lớp phủ, vòm phủ
Có nhiều cách phân loại đá macma, phương pháp được sử dụng
rộng rãi là dựa vào hàm lượng SiO
2
trong đá như ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Phân loại đá macma theo hàm lượng SiO
2
Hàm lượng SiO
2

(%)
Tên đá
> 75 Macma siêu
axít
65 - 75 Macma axít
52 - 65 Macma trung
tính
40 - 52 Macma bazơ
< 40 Macma siêu
bazơ
Ðá Macma có hàng trăm loại khoáng vật nhưng số khoáng vật
chính tạo đá không nhiều. Mười khoáng vật: Fenspat, Thạch anh,
Amphibon, Pyroxen, Mica, Ôlivin, Nephêlin, Lơxit, Manhêtit, Apatit
chiếm 99% trọng lượng đá macma; Thành phần hoá học chủ yếu của đá
macma là Silic, nhôm, sắt thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2. Hàm lượng trung bình của các nguyên tố
Các

chất
Hàm lượng trung
bình (%)
SiO
2
59,12
Al
2
O
3

15,13
Fe
2
O
3

6,88
CaO 5,08
MgO 3,49
Na
2
O 3,84
K
2
O 3,13
H
2
O 1,15


Dựa vào màu sắc, các khoáng vật tạo đá macma chia làm hai nhóm
chính:
- Các khoáng vật sáng màu: Fenspat, Mica trắng
- Các khoáng vật sẫm màu: Amphibon, Ôlivin, Manhêtit
b. Một số loại đá Macma
Pecmatit
Là loại đá điển hình cho macma siêu axit, hình thành dưới sâu,
nằm ở thể mạch, có kiến trúc toàn tinh hạt lớn.
Các khoáng vật chính tạo đá là Fenspat dạng Octoclaz, Thạch anh,
Mica kết tinh tạo các tinh thể lớn, màu xám trắng hay trắng xám.
Pecmatit là loại đá cứng rắn rất khó bị phá huỷ hoá học. Sản phẩm
phong hoá của đá Pecmatit chủ yếu là các hạt cơ giới có kích thước khác
nhau. Ðất hình thành trên Pecmatit có thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất
mỏng chua và nghèo dinh dưỡng. Việt Nam gặp Pecmatit ở La Phù,
huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ.
Granit
Ðá Granit còn có tên gọi là đá hoa cương, đại diện cho đá macma
axit. Hình thành dưới sâu, rất phổ biến trong vỏ Trái Ðất, màu xám
trắng, xám hoặc hồng. Kiến trúc toàn tinh với các kích thước hạt khác
nhau. Thành phần khoáng vật chủ yếu là Octoclaz, Thạch anh, mica
trắng và đen, Hoocblen. Khoáng vật phụ có Plazoclaz, Apatit, Manhetit.
Các khoáng vật có thể quan sát nhận biết bằng mắt thường.
Dựa vào kích thước và thành phần khoáng vật mà có các tên gọi
như: Granit hạt thô, Granit hạt trung bình, Granit hạt mịn, Granit 2
mica
Granit có Fenspat kiềm như Anbit, Microlis thì có màu hồng, đỏ,
đỏ sẫm dùng làm gạch trang trí.
Granit là loại đá cứng rắn, khó bị phong hoá. Ðất hình thành trên
đá Granit nói riêng và Macma axit nói chung có thành phần cơ giới nhẹ,
tầng mỏng, rất chua và nghèo dinh dưỡng.

Ở Việt Nam gặp Granit ở nhiều nơi như Hoàng Liên Sơn (Lào
Cai), Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam, Ðèo Hải Vân, Thanh Hoá,
Quảng Bình
Ðá phun trào tương ứng với Granit là Riôlit (còn gọi là Lipazit) có
thành phần khoáng vật giống với Granit nhưng có kiến trúc poocphia,
cấu tạo dòng chảy. Nếu Riôlit không kết tinh được gọi là thuỷ tinh núi
lửa. Dãy núi Tam Ðảo chủ yếu cấu tạo bởi Riolit.
Anđêzit và Poocphia
Là những đá macma trung tính điển hình, hình thành bằng con
đường phun trào.
Anđêzit có màu xám, xám đen, xanh đen, đen. Thành phần khoáng
vật chủ yếu là Plazoclaz, Hoocbles, Ôgít, Pyroxen, Biôtit.
Anđêzit là đá phun trào kiểu mới, Poocphia là đá phun trào cổ.
Ðá xâm nhập tương ứng với Anđêzit là Ðiorit có kiến trúc toàn
tinh, thành phần khoáng vật tương tự Anđêzit. Khi lộ ra ngoài Anđêzit bị
phá huỷ dễ hơn đá macma axit. Ðất hình thành trên loại đá này có thành
phần cơ giới nặng, tầng dày và có nhiều tính chất tốt.
Việt Nam gặp Anđêzit ở Thanh Hoá, Lai Châu, Tây Nguyên.
Ðiorit gặp ở Lào Cai, Kontum
Bazan, Ðiabaz, Gabrô
Bazan là đá điển hình của Macma bazơ, hình thành bằng con
đường phun trào. Màu xám, xám đen, đen. Thành phần khoáng vật chính
tạo đá là Pyroxen (Ôgít hoặc Ðiopxit) chiếm khoảng 50 %, thứ đến là
Plazoclaz kiềm, khoáng vật phụ là Olivin, hoocblen. Ðá Bazan có kiến
trúc vi tinh hay hạt mịn, mắt thường không phân biệt được các tinh thể
khoáng có trong đá. Trong đá thường có các lỗ hổng hình tròn hay bầu
dục, nếu đá có nhiều lỗ hổng thường xốp, nhẹ gọi là đá bọt Bazan. Thế
nằm của đá Bazan chủ yếu là vòm phủ và dòng chảy.
Ðiabaz là Bazan cổ. Gabrô là đá xâm nhập tương ứng với phun
trào Bazan, có kiến trúc toàn tinh dạng hạt lớn và trung bình.

Khi lộ ra ngoài mặt, đá Bazan rất dễ bị phá huỷ, đất hình thành trên
đá Bazan có màu đỏ, nâu đỏ, thành phần cơ giới nặng, tầng dày và có
nhiều tính chất tốt.
Việt Nam gặp đá Bazan ở Tây Nguyên, Ðông Nam Bộ, Quảng
Ngãi, Quảng Trị, Nghệ An, Thanh Hoá
Ðunít
Ðunít là đá Macma siêu bazơ hình thành dưới sâu. Ðá có kiến trúc
hạt trung bình hay hạt nhỏ. Màu xanh lục, xám đen, đen. Khoáng vật chủ
yếu là Ôlivin (thay đổi từ 85 - 100%), ngoài ra còn gặp một ít Crônit,
Manhêtít. Khi bị biến đổi Ôlivin tạo thành Secpentin.
Ðất hình thành trên đá Ðunít có màu đen. Việt Nam gặp Ðunít ở Cổ
Ðịnh - Thanh Hoá.
2.3. Ðá trầm tích
a. Ðịnh nghĩa và phân loại đá trầm tích
Ðá trầm tích là đá hình thành từ sản phẩm phong hoá của các đá có
trước hoặc do xác sinh vật tích đọng tạo thành.
Ví dụ: Ðá cát kết (Sa thạch) do các hạt cát là sản phẩm của phong
hoá vật lý kết gắn tạo thành. Ðá vôi San hô do xác San hô chết tích đọng
tạo thành
Dựa vào nguồn gốc hình thành, nhóm đá trầm tích thường được
chia thành các nhóm phụ sau: Trầm tích cơ học, trầm tích hoá học, trầm
tích sinh học và trầm tích hỗn hợp.
b. Một số loại đá trầm tích
Ðá cát
Ðá cát là đá điển hình của trầm tích cơ học.
Hạt cát là sản phẩm phá huỷ cơ học các đá khác có kích thước từ
2mm - 0,1mm. Sản phẩm ở trạng thái rời rạc gọi là cát, nếu kết gắn lại
gọi là cát kết (Sa thạch).
Cát kết có 2 thành phần cơ bản là các hạt cát và chất xi măng kết
gắn. Thành phần khoáng vật của cát kết: Thạch anh, Fenspat, Mica,

Ziacon, Manhetít, Kaolinít Cát kết có cấu tạo khối và cấu tạo phân lớp.
Xi măng kết gắn là Silic, sắt, canxi, sét
Cát kết rất phổ biến trong vỏ Trái Ðất, chiếm khoảng 60% trầm
tích cơ học.
Ðất hình thành trên đá cát có thành phần cơ giới nhẹ, nghèo dinh
dưỡng, có nhiều tính chất xấu.
Ở Việt Nam đá cát gặp phổ biến ở các tỉnh trung du và miền núi
như Bắc Giang, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Kontum Cát rời
gặp ở ven các dòng sông suối, đặc biệt gặp một dải dài ven biển miền
Trung từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.
Ðá Vôi
Ðá vôi được hình thành do kết tủa CaCO
3
từ dung dịch thật (trầm
tích hoá học) hoặc do xác sinh vật chứa nhiều CaCO
3
tích đọng lại (trầm
tích sinh học). Màu trắng, hồng, xám, xanh, xám đen. Thành phần
khoáng vật chủ yếu là Canxit, ngoài ra còn gặp Aragônít, Kaolinit,
Thạch cao, oxyt sắt, nhôm, Ðôlômít Ðá vôi sinh vật do xác các loại
sinh vật như Huệ biển, Tay cuộn, San hô, sò, hến, Núi đá vôi ở vịnh
Hạ Long chủ yếu là xác San hô.
Ðất hình thành trên đá vôi có màu đỏ, nâu đỏ, trường hợp đặc biệt
có màu đen. Ðá vôi còn được dùng để sản xuất vật liệu xây dựng, làm
chất cải tạo đất chua
Than bùn
Than bùn được hình thành do sự phân giải không hoàn toàn xác
thực vật trong điều kiện dư ẩm và thiếu oxy (vùng đầm lầy), màu đen,
nâu đen hay xám đen. Rất nhẹ, xốp và chứa nhiều di tích thực vật.
Thành phần hoá học của Than bùn: Oxy chiếm 30 - 38%, Cacbon

28 - 35%, Hyđro 5,5%, Nitơ 1- 2%. Than bùn có phản ứng rất chua.
Than bùn được sử dụng làm chất đốt, làm nguyên liệu để sản xuất
phân bón cho sản xuất nông nghiệp.
Ðá trầm tích hỗn hợp
Các thành phần tạo đá có nguồn gốc cơ học, hoá học và sinh học.
Tuỳ thành phần trong đá mà có các đá như: Sét vôi (macnơ), đá vôi sinh
hoá, sét bột
2.4. Ðá biến chất
a. Ðịnh nghĩa và phân loại đá biến chất
Ðá biến chất là đá được hình thành do đá macma, đá trầm tích bị
biến đổi mạnh mẽ trong điều kiện nhiệt độ cao và áp suất lớn.
Nguyên nhân tạo nhiệt độ cao và áp suất lớn là các hoạt động địa
chất diễn ra trong vỏ Trái Ðất như hoạt động macma, hoạt động kiến
tạo Giới hạn dưới của nhiệt độ là 350
o
C, của áp suất là 250-300 atm
bắt đầu gây biến chất cho đá.
Dựa vào nguồn gốc đá ban đầu, dựa vào nguyên nhân, dựa vào
mức độ biến chất, dựa vào thành phần khoáng vật và hoá học để phân
loại đá biến chất.
Nhóm đá biến chất có các nhóm phụ là biến chất động lực, biến
chất nhiệt, biến chất nhiệt động và biến chất trao đổi.
Nếu đá biến chất có nguồn gốc macma thì thêm đầu ngữ là Octo,
có nguồn gốc từ đá trầm tích thì thêm tiếp đầu ngữ là Para.
Ví dụ: Octognai, Paragnai
b. Một số loại đá biến chất
Nhóm đá phiến
Là những đá có cấu tạo phân phiến, gặp rất phổ biến trong vỏ Trái
Ðất với những đá điển hình sau:
- Phiến thạch sét: trước đây đá này xếp vào đá trầm tích, nay được

xếp vào đá biến chất, thực chất phiến thạch sét được coi là trung gian
giữa đá trầm tích và biến chất. Thành phần chính của đá là sét, ngoài ra
còn gặp một số khoáng vật đặc trưng của đá biến chất như: Xêrixit,
Clorit. Ðá có cấu tạo phân phiến điển hình, màu xám, xám đen, đen hoặc
xanh xám.
Khi lộ ra ngoài không khí đá dễ bị phá huỷ tạo thành đất đỏ và có
nhiều tính chất tốt. Ở Việt Nam, phiến thạch sét gặp ở nhiều nơi như
Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Hoà Bình, Tây Nguyên
- Phiến thạch mica: Ðá có cấu tạo phân phiến nhưng không điển
hình như các đá phiến khác. Thành phần khoáng vật chính của đá là sét,
mica, khoáng vật phụ là Grơnat, Xinimanit, Ðites, Thạch anh. Màu xám,
xám vàng. Việt Nam gặp nhiều ở Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La,
Nghệ An
- Phiến Clozit, phiến Philít: Là những đá có cấu tạo phân phiến rất
điển hình. Khoáng vật chủ yếu trong đá Clozit là sét và Clozit, trong đá
Philít là sét và Xêrixit. Vùng vòng cung sông chảy gặp khá phổ biến
Clozit và Philít.
- Amphibolít: Là đá phiến kết tinh của nhóm biến chất nhiệt động.
Thành phần khoáng vật chính tạo đá là Hoocblen và Plazoclaz, khoáng vật
phụ có Pyroxen, Biotit, Êpiđôt, thạch anh. Ðá có cấu tạo phân phiến, cấu
tạo phân lớp song song. Màu đen, lục, xám xanh, xanh lá cây.
Ở Việt Nam Amphibolit gặp ở Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ
Ðá Gnai
Thuộc nhóm đá biến chất nhiệt động, có kiến trúc hạt biến tinh với
kích thước hạt khá lớn. Thành phần khoáng vật chính tạo đá là Fenspat,
thạch anh và mica, khoáng vật phụ có Hoocblen, Pyroxen, Granát.
Gnai có nguồn gốc từ Granit, Ðioxit, Cát kết
Ở Việt Nam Gnai gặp ở thượng nguồn sông chảy, Kontum
Ðá hoa
Ðá hoa do đá vôi bị tái kết tinh khi gặp nhiệt độ cao. Thành phần

khoáng vật chính là Canxit kết tinh từ hạt mịn đến trung bình hoặc to,
ngoài ra còn gặp khoáng vật phụ là Ðôlômit, Xêrixit, Tan. Ðá có cấu tạo
khối, màu trắng, nâu, hồng
Ở Việt Nam đá hoa gặp ở Phong Thổ - Lai Châu, Quốc Oai - Hà
Tây.
Quăczít
Quăczít thuộc nhóm đá biến chất nhiệt. Kiến trúc hạt biến tinh với
cấp hạt mịn là chính. Thành phần khoáng vật chủ yếu là Thạch anh,
ngoài ra còn gặp Xirêxit, Fenspat. Quăczít có nguồn gốc từ macma siêu
axit hay cát kết thạch anh. Màu vàng, trắng, hồng hoặc xám. Ðá rất cứng
rắn, khó bị phong hoá khi lộ ra ngoài không khí. Việt Nam gặp Quăczít
ở nhiều nơi như: Thanh Hoá, Nghệ An, Bắc Giang















Mối quan hệ giữa 3 nhóm đá chính trong vỏ Trái Ðất
Ðá tr


m tích


Ðá bi
ế
n ch

t



Ðá Macma


Lò macma


Câu hỏi ôn tập

1. Khái nhiệm chung về khoáng vật?
2. Khoáng vật điển hình của lớp silicat
3. Khoáng vật điển hình của các lớp oxyt, hydroxyt, sunfua và
sunphat, cácbônát, phosphat và muối mỏ.
4. Ðá là gì? Những nhóm đá chính cấu tạo nên vỏ trái đất?
5. Ðịnh nghĩa, phân loại và mô tả đá macma?
6. Ðịnh nghĩa, phân loại và mô tả đá trầm tích?
7. Ðịnh nghĩa, phân loại và mô tả đá biến chất?



×