Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

BÀI GIẢNG CHỌN GIỐNG CÂY TRỒNG CHUYÊN KHOA 1 - BÀI 6 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.16 KB, 7 trang )


36

cho phép hạn chế các tính trạng trội bất lợi (chống chịu kém, năng suất thấp) ở các
dòng phục hồi và dòng duy trì.
Ở trường hợp này tỉ lệ cây đực/ cái có thể là 1:7 – 10
Ruộng nhân giống dưa chuột, nếu sử dụng dòng mẹ là cây 100% hoa cái cần
cách li với ruộng sản xuất thương phẩm ít nhất 2.000 mét đường chim bay.


Bài 6
CHỌN TẠO GIỐNG CÀ PHÊ


1. VẤN ĐỀ CHỌN TẠO GIỐNG CÀ PHÊ HIỆN NAY
Do cà phê mít có ít giá trị kinh tế, nên việc chọn tạo giống chỉ chú trọng đối
với cà phê chè và cà phê mít. Tương tự như các cây lâu năm khác, việc chọn tạo giống
đòi hỏi thưòi gian dài và một số yêu cầu kĩ thuật đặc biệt có liên quan đến tế bào học,
hoá sinh, sinh học… đôi khi không ít tốn kém. Như trên đã nói, tuy số gốc bộ nhiễm
sắc thể của cà phê là bằng nhau n=11, nhưng cà phê chè có cấu tạo tứ bội thể (4n=44)
trong khi cà phê vối có cấu tạo nhị bội thể (2n=22) nên trong tự nhiên không thể có sự
lai hoa giữa chúng. Để có thể lai được, Viện nghiên cứu cà phê – ca cao Pháp (IFCC)
trước hết dùng hoá chất colchicine để tăng gấp đôi số gốc nhiễm sắc thể của cà phê vối
lên rồi mới lai hoa với cà phê chè. Kết quả là tạo ra được nhiều giống cà phê lai
(Arabusta) kết hợp được một số đặc tính tốt của hai giống. Tuy tạo ra được là công
phu, tốn kém nhưng nó không được mở rộng và chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong bảng thống
kê cà phê trên thế giới. Lí do đơn giản là người ta dễ dàng trộn cơ học các loại cà phê
chè hoặc cà phê vối trong điều kiện thích ứng đặc biệt cho mỗi giống. Bởi vậy, xu thế
hiện nay vẫn là cải tiến từng giống.
Đối với cà phê chè thông qua các cây đầu dòng ưu tú là phương pháp khá đơn
giản và nhanh hơn được áp dụng ở nhiều nước. Nhưng do tính phân li mạnh, đặc tính


năng suất cao của cây mẹ không chắc giữ được lâu qua các thế hệ sau. Vì thế, ngoài
năng suất, người ta chú trọng đặc biệt đến các chỉ số di truyền hình thái các khí quan
của cây đầu dòng. Tiếp theo, người ta nhân giống cây mẹ bằng hạt, theo dõi tính trạng
trong 6 năm. Chọn các cây có tính di truyền ổn định đem nhân vô tính bằng giâm cành
và chọn cây ưu tú nhất làm cây mẹ. Thời gian cần khoảng 12 năm, rút ngắn được ½
thời gian so với trước đây.
Braxin theo hướng chọn cây đột biến và lai tạo giữa chúng đã tạo ra các giống cà phê
chè mới nổi tiếng như Catura, Mundo-novo, Catuai… Việc cải tiến giống cà phê vối và
cà phê mít cũng được thực hiện bằng hai phương pháp. Phương pháp chọn cây đầu
dòng ưu tú rồi nhân vô tính giữ được đặc tính quý của cây mẹ, nhưng khá tốn kém.

37

Phương pháp hữu tính chọn hoặc lai tạo được cây đầu dòng rồi sản xuất hạt có ưu điểm
là nhân giống nhanh và rẻ hơn, nhưng mức độ phân li mạnh hơn.
Quy trình cơ bản cho việc cải tiến giống cà phê do Viện nghiên cứu cà phê –
ca cao Pháp xây dựng được tóm tắt như sau:
Hai bước chung cho cả 2 phương pháp chọn giống hữu tính và vô tính:
Bước 1: xây dựng tập đoàn giống
Bước 2: phát hiện cá thể ưu tú
Bước 3: Chọn cây đầu Bước 3: Chọn cây ưu tú nhất làm đầu
dòng
dòng làm bố mẹ: Bước 4: Lập vườn nhân cành giâm
- Thử khả năng thụ phấn Bước 5: Thí nghiệm so sánh giống
tổng hợp (top cross) Bước 6: Chọn các dòng ưu tú
- Thử khả năng thụ phấn
riêng (test cross)
Bước 4: lập vườn nhân giống
nhị dòng (bi -clonial) và
đa dòng (poli - clonial)

(Đối với phương pháp chọn giống hữu tính) (Đối với phương pháp chọn giống hữu
tính)

2. KĨ THUẬT NHÂN GIỐNG CÀ PHÊ
Cà phê có thể được nhân giống bằng các phương pháp hữu tính hoặc vô tính,
trong đó nhân giống hữu tính là phổ biến với phương pháp chủ yếu là ương hạt trong
bầu.

2.1. Nhân giống hữu tính
Nhân giống bằng hạt gồm: trồng cà phê “rai” (nhặt cây con tự mọc để trồng),
gieo hạt thẳng, ương cây trên luống và ươm cây trong bầu. Nhưng chỉ có 2 phương
pháp sau được sản xuất chấp nhận, trong đó ương cây trong bầu là kĩ thuật tiên tiến
được áp dụng rộng rãi nhất hiện nay.

2.1.1. Hạt giống cà phê
Trong lớp vỏ thịt của quả là hạt (hay nhân) cà phê. Hạt có 2 lớp vỏ: lớp ngoài
cứng gọi là “ vỏ trấu”, lớp trong mỏng, bám sát vào nhũ gọi là “vỏ lụa”. Nội nhũ gồm 2
mảnh đối xứng áp bụng vào nhau, màu xanh cốm, có rãnh dọc. Phía cuối rãnh là mầm
hạt với 2 tử diệp và một rễ mầm. Hạt có kích thước trung bình 10 x 6 x – 7 x 3 – 4mm
nặng 1,5 – 2,0g. Sau khi quả chín hạt có thể nảy mầm ngay, không qua thời gian ngủ
nghỉ. Hạt nảy mầm ở điều kiện thích hợp nhất là nhiệt độ 30 – 32
0
C. Vào mùa hè chỉ
cần 1 tháng, nhưng vào mùa đông cần tới 2 tháng mới đạt 80% số hạt nảy mầm. Sau

38

khi gieo hạt 2 – 3tuần, rễ non đâm thủng vỏ trấu lộ ra ngoài (gọi là “nứt nanh”) 20 – 25
ngày sau thân non đẩy hạt lên khỏi mặt đất (gọi là “ đội mũ”), 10 ngày sau tử điệp thoát
ra khỏi vỏ trấu (giai đoạn “lá sò”) 20 – 25 ngày sau thì xuất hiện đôi lá thật đầu tiên.

Cứ khoảng 15 ngày sau nữa lại hình thành một đôi lá tiếp theo.
Để chọn hạt giống tốt người ta dùng phương châm 4 tốt: vườn tốt, cây tốt, quả
tốt, hạt tốt. Nên chọn cây có độ tuổi 8 – 10năm. Chỉ chọn những quả có 2 phần nhân
cân đối. Quả được xát tươi, đãi sạch ngay, cà phê “thóc” phơi nắng nhẹ hoặc trong râm
đưa độ ẩm xuống dưới 30%, thời gian sử dụng không sau 2 tháng.

2.1.2. Phương pháp ương cây trên luống
Là phương pháp cho kết quả cao hơn hẳn gieo hạt thẳng hay trồng cà phê “rai”
tuy vậy vẫn không thuận tiện bằng ương trong túi bầu.
Rấm hạt. Trước khi ương, hạt được xử lí và rấm để tăng độ nảy mầm đồng
đều. Dùng nước vôi trong 2%, ở 55 – 60
0
C ngâm trong 18 giớ, rồi hong khô. Hố rấm
hạt đào sâu 10cm, rộng 1m, dài 5cm. Dùng ván ép nhẹ cho hạt chìm vào cát. Tưới đẫm.
Phủ luống bằng liếp tranh đã phun Boócđô trừ nấm. Tưới phun đủ ẩm. Sau 7 – 10 ngày
kiểm tra hàng ngày lựa các hạt đã nảy mầm (nứt nanh) ra để đem ương trên luống hoặc
trong túi bầu.
Chọn đất vườn ương. Vườn ương cần cho cả 2 trường hợp: ương trên luống
hay trong túi bầu. Vị trí vườn ương cần đạt ở đất bằng hoặc thoải, thoát nước, gần
nguồn nước tưới (cần 1.000m
3
nước tưới/ha/vụ) nhưng tránh nguy cơ ngập nước, thuận
tiện cho việc vận chuyển cây con.
Đất vườn ương dùng để ương trên luống hay nạp vào bầu cần loại tơi xốp,
tránh quá sét hay quá cát, giàu chất hữu cơ (2 – 4%)
Thiết kế vườn ương:
- Làm đất: đất được cầy bừa nhiều lần cho tơi xốp, rải 1 – 2 tấn vôi bột/ha
(100 – 200g/m
2
) trước lần bừa cuối cùng. Đất lên thành các luống kết hợp với việc bón

lót để ương cây trên luống. Chân luống rộng 1,2m, mặt luống 1m để bố trí 6 hàng cà
phê cách nhau 18cm. Luống cao 15 – 20cm, giữa các luống có đường đi rộng 0,5m.
Sau khi lên luống, một ha bón lót 40 – 50 tấn phân chuồng mục đã ủ với phân lân nung
chảy (1% trọng lượng) trước đó 1 tháng. Chung quanh vườn ương cần đào rãnh thoát
nước rộng 50cm sâu 60cm.
- Dựng giàn che: giàn dựng bằng các cọc dài 2,2 – 2,4m, đường kính 7 – 8cm,
chôn sâu 0,4m còn lại chiều cao cách mặt đất 1,8 – 2,0m. Cọc cách nhau 2,0m đầu cọc
có chạc để đỡ và buộc xà bằng nứa. Xà ngang dài tối thiểu 3,2m. Che trên giàn bằng
các loại lá như cỏ tranh, cỏ lau (1m
3
/100m
2
)
Chung quanh vườn cần che bằng các liếp thưa để tránh mưa gió mạnh và ngăn
gia súc phá hoại.

39

Ương hạt: dùng các khung gỗ có đanh tre dài 2cm để định vị các lỗ nhỏ bỏ hạt
trên mặt luống cách nhau 18cm x 18cm. Đặt các hạt đã nứt nanh vào lỗ, lấp đất cho hạt
cách mặt đất 1,2 – 1,5cm. Phủ mặt luống bằng rơm hay cỏ mịn dày 2 – 3cm. Tưới phun
đẫm lần đầu.
Chăm sóc vườn ương: vườn cần được tưới ẩm đều và phá váng sau khi mưa
lớn. Khoảng 15 ngày sau hạt bắt đầu trồi lên mặt đất, cần dỡ bỏ lớp cỏ rơm. Xới đất
nhẹ. Chế độ tưới đối với việc ương cây trên luống trung bình như sau:
Tháng đầu tiên: 1,5lít/m
2
, tưới hàng ngày hoặc cách 1 ngày.
Tháng thứ 2: 2,0lít/m
2

, tưới 3 – 4ngày/lần.
Tháng thứ 3-4: 4lít/m
2
, tưới 1 tuần/lần.
Tháng 5-6: 5lít/m
2
, tưới 10 ngày/lần.
Khi cây có 1 đôi lá thật trở đi, bắt đầu bón thúc 2 – 3tuần/lần bằng nước phân
hữu cơ loãng +0,5% phân lân. Nước phân loãng là các loại phân hữu cơ (phân chuồng
hoai, khô dầu, xác mắm, lá phân xanh) được ngâm trong bể 1 – 2 tháng pha với nước lã
tỉ lệ 1/5 – 1/7. Tránh dùng phân tươi và phân khoáng để tưới. Từ tháng thứ 3 mới tưới
xen kẽ một lượt phân khoáng nồng độ 0,1 – 0,15% gồm urê và KCl (2:1)
Trong suốt 6 tháng ương cây, lượng phân bón cần cho 1 ha vườn ương là
khoảng 30 – 50 tấn phân chuồng, 10 – 20 tấn lá phân xanh, 2 tấn khô dâu, xác mắm, 1
tấn phân lân nung chảy, 300 – 500 kg urê, 200 – 300 kg KCl. Để phòng trừ nấm bệnh
dùng boócđô 0,5% phun định kì 2 tuần/lần.
Khi cây con có 3 đôi lá thật trở đi bắt đầu dỡ dần vật liệu che giàn, dỡ làm 7 –
8 lần. Trước khi cà phê được đem trồng 20 – 30 ngày lớp che trên giàn được rỡ hoàn
toàn để cây non quen với 100% ánh sáng trực xạ để tránh héo chết ngoài nương.

2.1.3. Ương cây trong bầu
Ương cà phê trong bầu là phương pháp tiên tiến nhất hiện nay nhờ các ưu
điểm: tiết kiệm 50% diện tích vườn ương, có thể dùng đất ở nơi khác đem đến nên
không phải di chuyển, đỡ công tưới, chăm sóc và bứng bầu, dễ chăm sóc cá biệt đến
từng cây, bảo vệ cây con nguyên vẹn nên tỉ lệ sống đạt gần 100%.
- Túi bầu: túi làm bằng chất dẻo PE có kích thước 17

25cm chứa được
khoảng 2kg hỗn hợp đất phân. Gần đáy túi có đục 4 lỗ đường kính 6 – 8mm để thoát
nước.

Đất ương cây: dùng đất tốt ở tầng mặt 5 – 10cm, giàu mùn. Đập nhỏ sàng qua
sàng đường kính 5mm. Tạo hỗn hợp đất ương bầu gồm 60 - 80% đất đã sàng + 20 –
40% phân hữu cơ mục + 0,5% phân lân nung chảy + 0,1%urê.
- Cho đất vào bầu gieo hạt: hỗn hợp đất phân đổ vào đầy túi nhựa, dỗ vài lần
cho đất lèn chặt (1,8 – 1,9kg). Xếp túi theo hàng (hàng ngang 10 túi, hàng dọc tuỳ
chiều dài luống). Túi cách nhau 5 – 7 cm (50túi/m
2
). Gieo 2 hạt đã ủ nứt nanh vào mỗi

40

túi có độ sâu 1,5 – 2,0cm (nếu đặt quá sâu cây con sẽ yếu và dễ chết yểu). Sau khi cây
có 2 lá thật, để lại một cây khoẻ mạnh.
Việc chăm sóc cây trong bầu cũng tương tự như ương cây trên luống đã trình
bày trên. Trong quá trình chăm sóc cần gom các cây có cùng mức độ sinh trưởng vào
một khối để chăm sóc, đặc biệt các cây yếu hơn, tạo độ đồng đều cao cho toàn bộ
vườn.
Những tiêu chuẩn quan trọng của cây cà phê con đem trồng là có 6 – 7 tháng
tuổi với 6 – 8 đôi lá thật. Cây cao 25 – 30cm, thân cao mập khoẻ, đường kính cổ rễ 5 –
6mm, rễ đuôi chuột thẳng. Cây có 0 – 2đôi cành ngang mới nhú. Không có đốt vươn
quá dài, lá đọt quá to và non nớt, không có sâu bệnh.

2.2. Nhân giống vô tính

2.2.1. Giâm cành
Phương pháp này có ưu điểm quan trọng là có thể tạo ra các vườn cà phê đồng
đều từ một cây đầu dòng ưu tú, giữ được các đặc tính di truyền của cây mẹ. Phương
pháp áp dụng tốt nhất cho cây cà phê vối là cây có đặc tính thụ phấn chéo, dễ bị phân
li. Tỉ lệ cành giâm đạt 70 – 100%, trong khi cà phê chè và cà phê mít tỉ lệ này thấp. Do
yêu cầu cao về kĩ thuật, giâm cành chỉ mới được áp dụng đối với cà phê vối trồng tập

trung trong một số đồn điền ở Châu Phi.
Vườn lấy cành giâm
Nhân giống bằng giâm cành cần một khối lượng cành rất lớn, do vậy phải xây
dựng các vườn thực liệu. Để lấy chồi vượt làm cành giâm, người ta trồng cà phê mật độ
cao 25cm

25cm, cắt bỏ cành ngang, chỉ để lại chồi vượt. Khi cây con có 8 – 10 cặp
lá, cắt thân cây đến đoạn hoá gỗ (cách mặt đất 15cm), dùng đoạn thân này cắt nhỏ
thành 10 – 15 cành giâm. Trên gốc lại nuôi tiếp 2 chồi vượt để 7 – 8 tháng sau tiếp tục
dùng làm cành giâm. Sau 3 năm với 4 lần cắt thì cây đã kiệt sức, được loại bỏ.
Chọn và xử lí cành giâm
Cành giâm được lấy từ cành vượt, dùng các đoạn chưa hoá gỗ, còn mầu xanh
chưa chuyển sang nâu. Cành vượt được cắt ra thành đoạn mỗi đoạn mang một đôi lá.
Phía dưới dài 3 – 5cm, phía trên cắt sát gần với đốt cành. Mỗi đoạn cành được bổ đôi
làm 2 phần bằng nhau, mỗi phần mang 1 lá. Cắt bỏ đi ½ lá ngay trước khi giâm. Khi
phải chuyển cành đi xa cần nhúng đầu cành vào parafin hoặc đặt vào túi nhựa có bông
vải ẩm. Chú ý khi cắt cành thành đoạn, cắt 2 lát chéo nhau phía dưới đốt sẽ cho tỉ lệ
sống cao hơn nhiều so với cắt 1 lát hoặc cắt ngang.
Môi trường cắm cành giâm có thể là cát, đất mùn, than bùn, mùn cưa, trấu…
là những chất giữ ẩm đồng thời thoáng khí. Thông thường người ta trộn chúng với
nhau, tránh chỉ dùng một thứ, nhất là cát. Môi trường thích hợp cho cành giâm cần có
độ ẩm không khí cao gần bão hoà (85 – 90%) và nhiệt độ khoảng 25 – 28
0
C. Cành

41

giâm cần ánh sáng tán xạ (40 – 60% cường độ sáng toàn phần), để trực tiếp dưới ánh
nắng mặt trời cành giâm sẽ bị chết hàng loạt.
Mùa mưa là thời gian thích hợp để giâm cành, nhất là cà phê chè. Tuy vậy

mưa kéo dài cũng làm cho nấm bệnh phát triển và giảm tỉ lệ sống của cành giâm.
Để kích thích cành giâm ra rễ, nhiều phương pháp và hoá chất đã được thử
nghiệm. Ở Ấn Độ và Colombia sử dụng hai cách xử lí đạt tỉ lệ cao giâm sống cao tới
80 – 90% là: ở Colombia dùng axit alpha naphtiaxetic bôi lên lát cắt, đặt đầu vào rêu
tưới ẩm hàng ngày. Còn ở Ấn Độ người ta khoanh vỏ trồi vượt, bôi chất kích thích
(nước chiết nước giải trâu bò +0,2% amôn nitrat +8% đường dextro +0,01% axit
indolaxetic), bọc đầu cành bằng rêu và tưới ẩm.
Kĩ thuật giâm cành trong sản xuất
- Bể giâm cành: bể được xây bằng gạch rộng 1,5 – 1,7m, cao phía ngoài 50cm,
phía trong 80cm. Hai bể đấu lưng vào nhau ở phía trong, đáy đục lỗ thoát nước. Nạp
cuội sỏi đầy 2/3 bể, rồi đổ 20 – 30cm đất trộn mùn cưa (hoặc trấu, rơm mục). Nắp bể
được đậy bằng khung nilon mỏng. Trên bể có giàn che bằng lá lau lách cao 1,8 – 2,0m.
- Cành giâm đã xử lí cắm vào đất trong bể với mật độ 250 – 300cành/m
2
. Tưới
đủ ẩm thường xuyên. Sau 2 – 3tuần vết cắt hình thành mô sẹo và bật rễ. Lựa các cành
đã mọc rễ đem ương vào túi bầu nilông, hoặc lưu lại cho đến lúc có 3 cặp lá thật mới
chuyển sang vườn ươm.
Trong điều kiện thời tiết không khắc nghiệt cũng có thể thay thế bể bằng luống
đất giâm đặt dưới giàn che. Luống đất cao 15cm, xếp cành giâm, rải cát mịn và tưới đủ
ẩm hàng ngày.
- Vườn ươm cành giâm: từ sau khi ra rễ, cành giâm được lưu lại bể cho đến
khi có 3 cặp lá thật và rễ dài 3,0 – 3,5cm rồi bứng ra cấy trong vườn ươm với mật độ
20

20cm. Kĩ thuật vườn ươm cành giâm cũng tương tự như đối với vườn ươm hạt đã
mô tả trên. Sau khoảng 8 – 9 tháng cây có 6 – 7 đôi lá thật thì chuyển ra trồng trên
nương.
-Ương cành giâm trong túi bầu: khi cành giâm nhú rễ chuyển sang ương trong
bầu ni lông sẽ giải phóng được bể, nâng cao năng suất sử dụng bể lên 4 – 5 lần, có thể

sản xuất 1.500 cành giâm/m
2
/năm.

2.2.2. Ghép cành cà phê
Cũng giống như đối với các cây khác, ghép cà phê giúp cho việc phối hợp các
đặc tính tốt của gốc ghép và cành ghép. Phương pháp ghép được coi là hiệu quả hơn cả
là ghép ngọn.
Gốc ghép là cây cà phê 6 – 8 tháng tuổi được cắt ngang cách mặt đất 25 –
30cm. Cành ghép là một đoạn trồi vượt non mang 3 – 4 đôi lá và một búp non được cắt
vắt 2 nhát đối xứng dài 3 – 5cm như cái nêm. Dùng dao ghép chẻ đôi gốc ghép sâu 3 –
5cm. Đặt cành ghép vào gốc ghép sao cho các lớp vở các mặt cắt khớp nối vào nhau.

42

Dùng dây nilông quấn chặt phần ghép nối và úp một phễu giấy không thấm lên trên để
tránh nước mưa. Sau khi ghép tưới gốc ghép đủ ẩm thường xuyên. Sau 2 - 3 tuần các
cây ghép có thể đem ra trồng.
So sánh các tổ hợp gốc ghép-cành ghép. Trạm Thí nghiệm Cây nhiệt đới Tây
Hiếu kết luận ghép cà phê chè trên cà phê vối hoặc ngược lại là cho tỉ lệ sống cao nhất
(68 – 70%). Ghép cà phê chè hoặc cà phê vối lên cà phê mít (nhóm Parachy coffea)
cho tỉ lệ sống rất thấp.

Bài 7

CHỌN TẠO GIỐNG CAM QUÝT
(Citrus sp)

1. CÁC GIỐNG CAM QUÝT CHỦ YẾU
Tất cả các giống cam quýt hiện đang trồng, do tính phức tạp về mặt hình thái và

giải phẫu thực vật, các đặc điểm sinh vật học , người ta thường sắp xếp vào các nhóm
khác nhau như nhóm các giống cam, nhóm bưởi, chanh, quýt Sự phân nhóm như vậy
là sắp xếp các giống có đặc điểm tương tự vào cùng nhau. Hiện tại trên quan điểm
nông học người ta sắp xếp các nhóm như sau:

1.1. Chanh lajm: C. aurantifolia Swingle (các tên khác C.acida Roxb; C.lima
Luran; Limonia aurantifolia Chiristm )
Cây cao 5 - 6m, lá nhỏ hình elip hoặc ovan dài, hoa nhỏ, màu trắng đôi khi có
màu tím nhạt. Quả nhỏ hình ovan hoặc hình cầu, đỉnh quả có núm nhỏ. Quả đạt kích
thước 3,5 - 5,0cm khi chín màu vàng xanh hoặc vàng hơi nâu. Ăn rất chua có hương vị
đặc thù. Nhiều tác giả cho rằng lajm có nguồn gốc từ vùng đông Ấn Độ, Miến Điện và
Malaixia. Đây là giống rất ưa nhiệt, không chịu lạnh do vậy trồng chủ yếu ở vùng nhiệt
đới. Ở Việt Nam giống này được trồng nhiều ở miền Nam Việt Nam.
Tương tự giống này còn có giống chanh Mehico (West Indian); chanh Tahiti
(còn gọi là Persa); chanh Palestin

1.2. Chanh núm: C.limon Burm (các tên khác: C.communis Poit; C.limonum
Risso; C.medica var. limoll )
Cây cao 3 - 6m, phân cành thấp, cành thường có gai. Lá dạng ovan dài, phiến lá
dày. Hoa to trung bình, màu tím nhạt. Quả dạng ovan, thuôn dài có núm ở đỉnh quả. Vỏ
quả sần sùi nhiều túi tinh dầu. Ăn chua song rất thơm. Là giống chịu lạnh khá so với
lajm song mẫn cảm với lạnh hơn các giống cam, bưởi chùm hoặc quýt vì vậy được
trồng chủ yếu ở vùng có khí hậu ôn hoà không quá nóng hoặc lạnh.

×