Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

BÀI GIẢNG LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG - CHƯƠNG 4 CÁC LUẬT TỤC CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.8 KB, 16 trang )

CHƯƠNG 4
CÁC LUẬT TỤC CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG

4.1. Tri thức bản địa và quản lý tài nguyên rừng
4.1.1. Khái niệm về tri thức bản địa và bảo vệ tài nguyên rừng
Trong những thập kỷ gần đây, khái niệm của sự phát triển đã tiến triển qua nhiều giai đoạn, từ việc chú
trọng vào tăng trưởng kinh tế, đến tăng trưởng với sự công bằng, thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, sự tham
gia đến phát triển bền vững (Bates, 1998; Black, 1993; Hobart, 1993; Watts, 1993).
Một thời kỳ dài, khái niệm phát triển gần như chú trọng đến các tiêu chí về công nghiệp, khoa học công
nghệ, kinh tế .v.v. khoa học hiện đại, phát triển trên cơ sở khoa học hàn lâm được phân tích trên cơ sở hệ
sinh thái tự nhiên. Trong khi đó, như đã trình bày ở mục trên, hệ sinh thái nhân văn đóng một vai trò quan
trọng trong sự phát triển xã hội. Hệ xã hội trong hệ sinh thái nhân văn được coi như một phần quan trọng
trong phép phân tích hệ thống. Tri thức bản địa là hệ thống thông tin làm cơ sở của một hệ thống xã hội,
được làm thuận tiện trong sự truyền đạt thông tin và ra quyết định. Hệ thống thông tin bản địa là động lực
và sự tác động liên tục bởi sự sáng tạo từ nội lực, sự thực nghiệm, cũng như sự giao diện với hệ thống bên
ngoài (Flavier và ctv. 1995).
Tri thức bản địa, nói một cách rộng rãi là tri thứ
c được sử dụng bởi những người dân địa phương trong
cuộc sống của một môi trường nhất định (Langil và Landon, 1998). Như vậy, tri thức bản địa có thể bao
gồm môi trường truyền thống, tri thức sinh thái, tri thức nông thôn và tri thức địa phương .
Theo Johnson, 1992, tri thức bản địa là nhóm tri thức được tạo ra bởi một nhóm người qua nhiều thế hệ
sống và quan hệ chặt chẻ với thiên nhiên trong một vùng nhấ
t định. Nói một cách khái quát, tri thức bản
địa là những tri thức được rút ra từ môi trường địa phương, vì vậy nó gắn liền với nhu cầu của con người
và đIều kiện địa phương (Langil và Landon, 1998).
Theo Warren, 1991, tri thức bản địa là tri thức địa phương – dạng kiến thức duy nhất cho một nền văn
hóa hay một xã hội nhất định. Đây là kiến thức cơ bản cho việc ra quyết định ở mức địa phương về nông
nghiệp, chăm sóc sức khỏe, chế biến thức ăn, giáo dục, quản lý tài nguyên thiên nhiên, và các hoạt động
chủ yếu của cộng đồng nông thôn. Khác với tri thức bản địa hệ thống tri thức hàn lâm thường được xây
dựng từ các Trường đại học, Viện nghiên cứu.
Ngày nay, tri thức bản địa được xem như là một trong những vấn đề then chốt trong việc sử dụng tài


nguyên thiên nhiên bền vững và sự cân bằng trong phát triển (Brokensha và ctv., 1980; Compton, 1989;
Gupta, 1992; Niamir, 1990; Warren, 1991a).
Tri thức bản địa là tri thức của cộng đồng cư dân trong một cộng đồng nhất định phát triển vượt thời gian
và liên tục phát triển (IIRR, 1999). Tri thức bản địa được hình thành dựa vào kinh nghiệm, thường xuyên
kiểm nghiệm trong quá trình sử dụng, thích hợp với văn hóa và môi trường địa phương, năng động và biến
đổi.
Các khái niệm về tri thức bản địa (local indigenous knowledge) hàm ý không chỉ là phần cứng hay ảnh
hưởng và ứng dụng của kỹ thuật như chăm sóc sức khỏe gia súc, mà còn có phần mềm, đó là các hệ thống
quản lý gia súc và cấu trúc xã hội, cấu trúc nhóm đã tạo nên chúng (Mathias-Mundy và McCorkle, 1992).
Tóm lại, tri thức bản địa là những nhận thức, những hiểu biết về môi trường sinh sống được hình thành từ
cộng đồng dân cư ở một nơi cư trú nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển của cộng đồng (Nguyễn
Thanh Thự, Hồ Đắc Thái Hoàng, 2000).
Đặc điểm của hai hệ thống kiến thức hiện hành được mô tả và thảo luận trong Bảng 1. Về mặt ngữ nghĩa
trong nghiên cứu hiện tượng, tri thức hàn lâm được nghiên cứu chính thống về mặt thời gian có thể ngắn
hoặc dài nhưng dựa trên hệ thống kiến thức mang tính kế thừa, được kết luận thông qua quá trình thí
nghiệm hoàn chỉnh. Hệ thống tri thức bản địa mang tính tổng quát, được rút ra từ sự quan sát ghi nhận,
phân tích theo tính tự phát. Thí nghiệm phi chính quy thường được thực hiện với thời gian dài. Theo tính
chất sử dụng tài nguyên và đầu ra của hệ thống, tri thức bản địa thường chú trọng vào tiềm năng địa
phương và sản xuất theo công thức “đầu tư thấp-năng suất thấp”.
Bảng 4.1: Đặc điểm của hệ thống kiến thức hiện hành
Nguồn: DeWalt, 1994.
4.1.2. Ý nghĩa của tri thức bản địa
Tri thức bản địa là nhấn mạnh cho tính tự cung, tự quyết với nhiều lý do trong đó hai lý do chính được
mô tả như sau:
1.
Con người quen thuộc với thực tiễn và kỹ thuật địa phương. Họ có thể hiểu, nắm vững nó, duy trì
chúng dễ hơn việc học tập và thực hành các tri thức mới được cung cấp bởi những người ngoài xa lạ và xa
xôi, không phù hợp với điều kiện tự nhiên địa phương.
2. Tri thức bản địa được hình thành trên nguồn tài nguyên địa phương, người dân có thể ít phụ thuộc vào
nguồn cung cấp từ bên ngoài-có thế đắt tiền và không phù hợp với họ. Theo Mundy và Compton, 1992, tri

thức bản địa thường có thể được cung cấp rẻ tiền, giải quyết được các vấn đề mang tính địa phương nhằm
nâng cao sức sản xuất và mức sống.
Tri thức bản địa có giá trị và ảnh hưởng l
ớn đến hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài
nguyên rừng với các cộng đồng dân tộc miền núi vì vậy có thể coi như là cơ sở và là nguồn tiềm năng
chính của việc quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên địa phương (Boonto, 1992). Vì vậy, tri thức bản
địa phải được coi là một nguồn tài nguyên quý giá và quan trọng của từng địa phương và của đất nước
(Hoàng Xuân Tý, 1998).
4.1.3. Các loại hình tri thức bản địa
Theo IIRR, 1999, tri thức bản địa có thể phân ra các loại hình như sau:
- Thông tin: Hệ thống thông tin về cây cỏ, thực vật có thể được trồng trọt hay canh tác tốt cùng tồn tại
với nhau trên cùng một diện tích canh tác nhất định hay những chỉ số về thực vật. Các câu chuyện, thông
điệp được truyền lại bằng các vết đục, chạm khắc hay viết trên các thẻ trúc (Trung quốc, Việt nam, Thái
lan ), các dạng lưu truyền dân gian, hệ thống trao đổi thông tin truyền thống.
- Thực tiễn và kỹ thuật: Tri thức bản địa bao gồm kỹ thuật về trồng trọt và chăn nuôi, và phương pháp
lưu trữ giống, chế biến thức ăn, kỹ năng chữa bệnh cho người và gia súc, gia cầm.
- Tín ngưỡng: Tín ngưỡng có thể đóng vai trò cơ bản trong sinh kế, chăm sóc sức khỏe và quản lý môi
trường của con người. Những cánh rừng thiêng (rừng ma) được bảo vệ với những lý do tôn giáo. Những lý
do này có thể duy trì những lưu vực rộng lớn đầy sức sống. Những lễ hội tôn giáo có thể là cơ hội bổ sung
thực phẩm, dinh dưỡng cho những cư dân địa phương khi mà khẩu phần thường nhật của họ là rất ít ỏi.
- Công cụ: Tri thức bản địa được thể hiện ở những công cụ lao động trang bị cho canh tác và thu hoạch
mùa màng. Công cụ nấu nướng cũng như sự thực hiện các hoạt động đi kèm.
- Vật liệu: Tri thức bản địa được thể hiện với vật liệu xây dựng, vật liệu làm đồ gia dụng cũng như tiểu
thủ công nghiệp truyền thống.
- Kinh nghiệm: Người nông dân thường tích lũy kinh nghiệm trong quá trình canh tác, giới thiệu các
nguyên liệu giống mới cho hệ thống canh tác đặc hữu. Nhiều kết quả chữa bệnh đặc biệt được tích lũy qua
kinh nghiệm sử dụng nguồi thực vật địa phương.
- Tài nguyên sinh học: Tri thức bản địa được thể hiện thông qua quá trình chọn giống vật nuôi và các loại
cây trồng.
- Tài nguyên nhân lưc: Nhiều chuyên gia có chuyên môn cao như thầy lang, thợ rèn có thể coi như đại

diện của dạng tri thức bản địa. Tri thức bản địa trong dạng này có thể thấy ở các tổ chức địa phương như
nhóm họ tộc, hội đồng già làng trưởng tộc, các nhóm tổ chia sẻ hoặc đổi công.
- Giáo dục: Phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống, cách truyền nghề cho các thợ học việc, học
hỏi thông qua sự quan sát và những thực nghiệm, thực hành tại chỗ.
4.1.4. Nguồn cung cấp và mối quan hệ của nguồn và tri thức bản địa
Không phải tất cả mọi người trong cộng đồng có cùng chung và giống nhau về tri thức kỹ thuật bản địa
(Swift, 1979). Thông thường những người già cả có khi thức phong phú hơn người trẻ tuổi (IIRR, 1999).
Tuy nhiên trong thực tế các thành phần khác nhau của xã hội có thể biết những tri thức khác nhau và
được phân biệt với các dạng, giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác, trình độ văn hóa Tri thức thông thường,
phổ biến thì được mọi giới mọi loại người biết được ví dụ cách nấu cơm, hay làm thức ăn thông thường
đơn giản. Tuy nhiên đối với những tri thức đặc hữu, sự chia sẻ kiến thức không được phổ cập mà chỉ cho
một vài giới hay người trong cộng đồng. Ví dụ: Những trẻ chăn thả gia súc thường có nhiều kinh nghiệm
về chăm sóc gia súc hơn những trẻ khác. Một số bài thuốc chữa bệnh được truyền lại cho trưởng nam
(người Kinh và người các dân tộc thiểu số Trung bộ) hoặc trong phạm vi những người con gái trong gia
đình (Người Thái ở Sơn la và Nghệ an). Vài ngành nghề truyền thống được truyền lại chặt chẻ hơn nữa chỉ
dành cho một số rất ít người nhằm duy trì nghề nghiệp và bí mật nghề nghiệp.
Các dạng tri thức có quan hệ đến tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa, phân bố lao động trong gia đình hay
trong cộng đồng, nghề nghiệp, môI trường, địa vị xã hội, kinh nghiệm, lịch sử (IIRR, 1999; Swift, 1979).
Phân bố tri thức bản địa theo các kiểu trên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển công việc với tối
ưu hóa trong kết quả và hiệu suất công việc.
Có thể thấy 5 dạng người đóng vai trò truyền thông và lưu trữ tri thức trong cộng đồng (Mundy và
Compton, 1992), được thống kê sau:
i. Các chuyên gia địa phương (Indigenous experts)- các chuyên gia địa phương hay theo cách
gọi của McCorkle và ctv (1988) là những nhà thông thái địa phương có tầm hiểu biết rộng rãi, thường
được thỉnh cầu ý kiến bởi cộng đồng cư dân địa phương, cả 2 giới đều có thể có những đại diện này trong
kết quả điều tra của Norem và ctv (1988).
ii. Các nhà chuyên nghiệp địa phương (Indigenous professionals) là một dạng đặc biệt của các chuyên
gia địa phương, những người này có kiến thức không rộng rãi và thông thái trong cộng đồng nhưng những
gì họ biết là nhóm kiến thức được giữ bí mật với những người khác trong cộng đồng như là thầy lang, thầy
phù thủy, thợ rèn, thợ sơn tràng.

iii. Nhà cải cách (Innovator)- người hiểu biết thuộc nhóm này có thể phát triển ý tưởng bởi chính họ,
hoặc giới thiệu ý tưởng đã được quan sát sâu sắc cho cộng đồng thử nghiệm, họ cúng có thể là người giới
thiệu ý tưởng ngoại lai vào cộng đồng.
iv. Người trung gian (Intermediary)- là nhóm người chuyển giao thông tin từ nơi này đến nơi khác và giới
thiệu ý tưởng thử nghiệm cho cộng đồng cư dân địa phương, nhóm thông tin này có thể trở thành tri thức
bản địa theo sự thử nghiệm và điều chỉnh theo điều kiện lập địa của địa phương.
v. Người dễ tiếp nhận (Recipient-disseminator)- là những người dễ tiếp nhận nhóm tri thức ngoại lai
hoặc tự nghiên cứu thử nghiệm nhằm tạo nhóm tri thức bản địa theo thời gian.
4.1.5. Đặc trưng của tri thức bản địa
Tri thức bản địa có những đặc trưng sau:
1. Đa Tri thức bản địa được hình thành và biến đổi liên tục qua các thế hệ trong một cộng đồng địa
phương nhất định
2. Tri thức bản địa có khả năng thích ứng cao với môi trường riêng của từng địa phương, nơi đã hình
thành và phát triển tri thức đó.
3. Tri thức bản địa rất đơn giản, chi phí thấp và bền vững đối với điều kiện tự nhiên địa phương
(Wongsamun, 1992; Hoàng Xuân Tý, 1998b)
4. Tri thức bản địa do toàn thể cộng đồng trực tiếp sáng tạo ra qua lao động trực tiếp
5. Tri thức bản địa không được ghi chép bằng văn bản cụ thể (Mundy và Compton, 1992) mà được lưu
giữ bằng trí nhớ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, hò vè, tế lễ và
nhiều tập tục khác nhau (thông qua các hình thức văn hóa đặc trưng mang tính địa phương).
6. Tri thức bản địa luôn gắn liền và hòa hợp với nền văn hóa, tập tục địa phương
7.
Tri thức bản địa có giá trị cao trong việc xây dựng các mô hình phát triển nông thôn bền vững.
8.
Tính dạng của tri thức bản địa rất cao
Theo Boonto (1992), tri thức bản địa của người dân tộc Karen vùng Tam giác vàng trong bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên có 3 đặc trưng là i. Ảnh hưởng của các tổ chức xã hội quản lý cộng đồng, ii. Luật tục
và các quy ước sử dụng đất, và iii. Kỹ thuật sử dụng và bảo vệ tài nguyên của địa phương.
4.1.6. Tri thức bản địa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên
Dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, nhu cầu của con người cũng tăng lên mạnh mẽ theo tốc độ tăng

nhanh của khoa học kỹ thuật. Người ta ở khắp nơi đã và đang khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách
quá mức và nhiều vấn đề về môi trường đang được đặt ra ở cả các nước phát triển, đang phát triển và các
nước nghèo. Nạn suy thoái môi trường nghiêm trọng đã buộc con người nhìn nhận lại vấn đề phát triển
bền vững, và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Theo Atteh (1992), tri thức bản địa là chìa khóa cho sự phát triển ở cấp địa phương (Hoàng Xuân Tý,
1998a). Hiện nay trên thế giới có khoảng 124 nước hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu tri thức bản địa
nhằm tăng tính hiệu quả trong phát triển nông thôn và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Cá biệt,
nhiều nước trên thế giới chú trọng khai thác dạng tài nguyên này cho các mục đích thương mại có giá trị
cao ví dụ trong lĩnh vực dược học và mỹ phẩm. Ngoài ra, ở rất nhiều nơi trên thế giới kể cả các nước phát
triển và đang phát triển, tri thức bản địa đang được nghiên cứu hỗ trợ cho các nghiên cứu khoa học, làm
tăng nguồn tư liệu cơ sở về môi trường, được sử dụng để đánh giá tác động của quy trình phát triển, được
sử dụng như một công cụ để lựa chọn, quyết định. Vì vậy, nên phát triển nghiên cứu tri thức bản địa nhằm
thu thập, lưu trữ, nâng cao sự hiểu biết các tiến trình phát triển, ứng dụng và điều chỉnh kỹ thuật của các
cộng đồng cư dân địa phương (Wongsamun, 1992)
Ở các nước đang phát triển, tri thức bản địa được sử dụng thường xuyên và thường gặp trong kỹ thuật
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Nghiên cứu của Boonto (1992) cho thấy, hệ thống quản lý tài nguyên thiên
nhiên của người dân tộc Karen đã và đang tác động rất lớn vào môi trường thông qua canh tác nương rẫy.
Tuy nhiên kỹ thuật canh tác nương rẫy của dân tộc này cho phép họ bảo vệ và sử dụng tài nguyên, môi
trường bền vững và ổn định theo thời gian. Hai lý do của kỹ thuật bảo vệ hệ thống canh tác nương rẫy: 1.
Ngăn chặn sự thoái hóa đất canh tác, bảo vệ rừng và 2. Xúc tiến tái sinh tự nhiên trong quá trình bỏ hóa
đất canh tác. Bảo vệ sự tác động vào diện tích rừng và tài nguyên rừng bằng cách i. Bố trí các đường ranh
cản lửa nhằm ngăn chặn cháy lan khi đốt nương rẫy; ii. Tránh tác động vào rừng và thảm thực vật ở đỉnh
đồi, núi nơi có bố trí đất canh tác ở sườn đồi; iii. Canh tác với luần kỳ 1 năm tr
ồng trọt và 7 năm bỏ hóa;
iv. Không đào và cắt bỏ hệ thống rễ cây khi vệ sinh nương rẫy, các gốc cây được giữ lại với chiều cao
khoảng 0,4m có lợi cho tái sinh chồi trong vòng 6 tháng tới.
Tại miền núi Trung Việt Nam, theo Hoàng Xuân Tý, 1998b, Người K’tu thường sử dụng các khái niệm
đơn giản để phân loại đất và nhiều kinh nghiệm canh tác được phát triển theo các phân loại đất này đã
mang lại hiệu quả rõ rệt cho vùng có chế
độ mưa muộn, cường độ cao và tập trung. Tuy nhiên, người Thái

ở Sơn La phân loại đất theo mục đích sử dụng và hệ thống phân loại đất canh tác theo địa hình chung,
theo màu, bằng dao, bằng vị giác và cây chỉ thị nhằm xác định cơ cấu cây trồng thích hợp cho từng loại
đất đai (Hoàng Hữu Bình, Hoàng Xuân Tý, 1998). Việc phân loại đất canh tác góp phần quan trọng trong
việc sử dụng đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Các dự án quản lý tài nguyê
n
thiên nhiên cần phát triển trên hệ thống tri thức bản địa có sẵn (Boonto, 1992), phân tích và phát triển trên
cơ sở thực thi dự án có sự tham gia của cộng đồng cư dân địa phương.
Thông thường, các dự án phát triển bắt đầu với việc phát hiện vấn đề sau đó thảo luận tìm hướng giải
quyết vấn đề. Ví dụ, nếu tình trạng xói mòn đất là vấn đề cần quan tâm. Vậy, bảo vệ đất đai chống xói
mòn là yêu cầu cần giải quyết. Nếu nông dân cần tiền để đầu tư cho trang trại, chương trình tín dụng cần
phải được trả lời. IIRR, (1999) đề nghị biểu đồ tổng kết những quyết định phải được thực thi. Có 4 bước
cơ bản như sau.

Tri thức bản địa dưới góc độ tri thức kỹ thuật bản địa đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển
nông thôn và bảo vệ tài nguyên môi trường. Tại Thái Lan, chỉ vài nghiên cứu về tri thức bản địa được tổ
chức vào năm 1987 tại miền Đông Bắc người ta đã tìm thấy 993 tri thức kỹ thuật bản địa được sử dụng
thường xuyên bởi người dân địa phương (Wongsamun, 1992).
K
ết quả điều tra được tổ chức tại thôn Phú mậu Tỉnh Thừa Thiên Huế, gần 200 tri thức bản địa, kiến thức
dân gian được thu thập về các lĩnh vực kỹ thuật canh tác, sử dụng bền vững tài nguyên rừng. Các nhóm tri
thức bản địa thường khá đơn giản, dễ dàng sử dụng đối với từng nhóm dân tộc, độ tuổi và ngành nghề nên
thường có hiệu quả cao.
4.1.7. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu tri thức bản địa
Tiếp cận tri thức bản địa cần có nhiều hiểu biết về kỹ thuật lẫn xã hội, thông thường nên sử dụng các
phương pháp có người dân tham gia như PRA (Hoàng Xuân Tý, 1998), nhưng cần sử dụng rất linh hoạt,
kiểm tra nhanh kết quả và kết hợp đa ngành.
Có nhiều phương pháp tiếp cận tri thức bản địa vì vậy có thể lựa chọn phương pháp tiếp cận linh hoạt tùy
theo đIều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa điểm nghiên cứu.
1. Nhận ra chuyên gia tri thức bản địa: Là phương pháp xác định nhận diện cá nhân hiểu biết bằng
phương pháp đặt câu hỏi hoặc biểu đồ hóa.

2. Nghiên cứu trường hợp: Là phương pháp điều tra điều kiện tự nhiên hoàn chỉnh và sâu sắc một vấn
đề, một hoạt động trong một điều kiện tự nhiên nhất định.
3. Quan sát hiện trường: Quan sát ngoại mạo những hiện tượng được thực hiện hoặc có sẵn của cộng
đồng cư dân dịa phương.
4. Quan sát có sự tham gia: Là phương pháp nghiên cứu trong đó điều tra viên với cộng đồng cư dân
cùng quan sát và tham gia các hoạt động thường nhật nhằm phát hiện chủ đề nghiên cứu.
5. Phỏng vấn chuyên sâu: Là một dạng phỏng vấn trong đó các câu hỏi hoăc chủ đề được xây dựng trên
cơ sở phát triển ý tưởng nhằm phát hiện sự thật và sự linh hoạt.
6. Phân tích công nghệ có sự tham gia: Là phương pháp phân tích hệ thống mà nghiên cứu viên và
người dân địa phương cùng cộng tác phân tích phát triển chi tiết công nghệ.
7. Não công: Là phương pháp thảo luận nhóm trong đó các thành viên thực hiện não công chọn lựa ý
tưởng cho một chủ đề đặc biệt.
8. Năm câu hỏi: Là phương pháp năm bước phân tích nguyên nhân và kết quả.
9. Trò chơi: Là dạng điều tra bằng trò chơi hoặc thể thao nhẹ nhằm phát huy ý tưởng hoặc gợi nhớ tri
thức trong các tình huống cụ thể trong thời diểm cụ thể, có phát huy năng lực cá nhân.
10. Đóng kịch: Là phương pháp diễn kịch tự phát nhằm đưa đến tình trạng cụ thể để phát huy năng lực
tri thức.
11. Thảo luận nhóm: Là phương pháp điều tra nhằm huy động sự trao đổi giám định tri thức của nhóm
hiểu biết cụ thể.
12. Phân tích ưu nhược điểm: Là phương pháp phân tích theo nhóm có sự tham gia theo chủ đề nhất
định nhằm thẩm định chủ đề.
13. Phân tích SWOT: Là phương pháp phân tích phản hồi hệ thống theo nhóm nhằm phát hiện ưu -
nhược - cơ hội và nguy cơ.
14. So sánh lịch sử: Mô tả điều kiện kỹ thuật và hiện trạng về mặt không gian trong các giai đoạn khác
nhau của địa phương về mặt thời gian.
15. Bản đồ: Là phương pháp thu thập thông tin về hiện trạng theo đặc điểm của địa phương nhằm làm cơ
sở cho phương pháp phân tích hệ thống thông tin không gian (Spatial Information System).
16. Ma trận: Là phương pháp lập danh mục vật liệu, mô tả tính chất khai thác tri thức bằng phương pháp
gợi nhớ và chứng minh.
17. Biểu đồ lịch thời vụ: Là phương pháp mô tả đời sống, hoạt động thực tế trong khoảng thời gian một

năm.
18. Biểu đồ Venn: Là phương pháp sử dụng các vòng tròn nhỏ bằng giấy nhằm nhận định vấn đề, mối
liên hệ của nhóm ý tưởng và phát triển ý tưởng (IIRR, 1999).
19. Sắp xếp và xếp hạng: Là phương pháp dẫn dắt sắp xếp ý tưởng theo nhóm với tiêu chí cụ thể nhằm
phát hiện tiêu chuẩn nghiên cứu.
20. Phân loại: Là phương pháp phân loại, định danh nhóm chủ đề, ý tưởng và khái niệm.
21.
Đai và lưới: Là phương pháp minh họa mối quan hệ của vấn đề bằng biểu đồ, mạng lưới, đai hoặc dãi
thông tin nhằm liên kết ý tưởng và nhóm ý tưởng.
22.
Tư liệu hóa thu âm: Là phương pháp phỏng vấn trực tiếp, thảo luận nhóm, hội thảo có sử dụng
phương tiện thu âm.
23. Tư liệu hóa ghi hình với sự tham gia: Sử dụng phương tiện video nhằm tư liệu hóa và phân tích
hành động với sự tham gia và thảo luận của nhóm điều tra viên và cộng đồng cư dân địa phương.
24. Tư liệu hóa lưu ảnh: Nhằm lưu kiện, minh họa, phân tích dữ liệu bằng ảnh âm bản hoặc dương bản.
4.2. Thực trạng quản lý rừng ở Việt Nam
Việt Nam có 33.091.093 ha thì diện tích rừng, đất rừng và đất chưa sử dụng chiếm hơn 70%, trong đó đất
chưa sử dụng đã chiếm tới 37,1% (khoảng 12 triệu ha). Điều này có nghĩa rằng mọi nỗ lực của những
người hoạt động trong lĩnh vực Lâm nghiệp cho dù là của các nhà hoạch định chính sách/các nhà nghiên
cứu đào tạo/các cán bộ hiện trường … đều phải quan tâm và tìm cách góp sức mình vào việc tái tạo lại
rừng trên đất trống đồi núi trọc.
Theo tài liệu “Kết quả tổng điều tra Nông thôn và Nông nghiệp của Tổng cục Thống kê năm 1994, thì
tổng diện tích đất đai của Việt Nam là 33.091.093 ha, trong đó đất Lâm nghiệp là 12.055.239 ha chiếm tỷ
lệ 36,7%. Đất chưa sử dụng là 12.168.219 ha chiếm tỷ lệ 37,1%; trong đó đất có khả năng nông lâm
nghiệp là 7.795.909,9 ha. Trong đó:
- Đất lâm nghiệp là 12.055.239 ha chiếm tỷ lệ 36,7%.
- Đất chưa sử dụng là 12.168.219 ha chiếm tỷ lệ 37,1%, trong đó đất có khả năng Lâm nghiệp là
7.795.909,3 ha.
Tài liệu này đã phân tích quyền sử dụng đất Lâm nghiệp theo 2 lĩnh vực: Nhà nước (4.938.359 ha) và đất
giao cho hộ gia đình quản lý (840.970,5 ha). Tổng của 2 hình thức quản lý này là 5.779.329,5 ha. Vậy diện

tích còn lại?
Tài liệu “Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững” (Tập 1, Tuyển tập báo cáo khoa học của Chương
trình Khoa học Lâm nghiệp cấp Nhà nước tại Hội nghị Khoa học về Bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững của nhiều tác giả, Hà nội tháng 9/1995) đã nêu rõ hiện trạng sử dụng tài nguyên đất ở Việt Nam
(trang 3-7) và đã đưa ra những nhận xét rất rõ ràng.
Theo tài liệu này, tổng quỹ đất của Việt Nam là 33.099.093 ha, xếp thứ 55 trong số 200 nước, nhưng dân
số lại xếp thứ 12 trên Thế giới, cho nên bình quân đất đai là 0,46 ha/người (bằng 1/6 mức bình quân của
Thế giới) xếp thứ 120/200 nước.
Trong tổng diện tích 33.099.093 ha đất thì đang sử dụng vào mục đích Nông Lâm nghiệp/Đất chuyên
dùng/Đất thổ cư là 18.881.246 ha (57,04%) còn lại đất chưa sử dụng là 42,96% (14.217.854 ha).
Riêng đất Lâm nghiệp, cả nước có 9.641.100 ha, đất có rừng tự nhiên là 8.841.700 ha và rừng trồng là 799.400
ha, chiếm 57,06%. Đất đang sử dụng chiếm 29,12% tổng diện tích đất tự nhiên.
Điều này có thể cho thấy rằng: Việt Nam là một nước đất không rộng, người lại đông mà việc khai thác sử
dụng tài nguyên đất đai còn rất hạn chế. Quỹ đất còn rất nhiều, chưa được đưa vào sử dụng.Tuy nhiên khi
nói đến việc sử dụng đất lâm nghiệp cần nhấn mạnh sâu sắc vai trò của rừng trong việc bảo vệ tài nguyên
đất đai và môi trường, coi việc giữ rừng/phát triển rừng như là một biện pháp quan trọng nhất của việc sử
dụng đất đai hợp lý/bền vững.
Phát triển nông thôn (PTNT) nói chung và phát triển Lâm nghiệp xã hội (LNXH) nói riêng ở Việt Nam
trước hết là việc quản lý và sử dụng đất đai-một loài tài nguyên vô cùng quý giá cho mọi sản xuất của
người dân nông thôn/miền núi. Nó là một yếu tố tự nhiên gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông
thôn với hơn 80% dân số Việt Nam. Vì vậy, tìm hiểu vấn đề quản lý tài nguyên đất lâm nghiệp là việc làm
không thể thiếu được đối với các hoạt động LNXH.
Quản lý đất lâm nghiệp luôn gắn với tính đặc thù của nghành sản xuất lâm nghiệp được thể hiện qua các
khía cạnh sau đây.
- Đối tượng sản xuất lâm nghiệp là cây rừng có chu kỳ sinh trưởng và phát triển rất dài, có thể tới hàng
chục có thể hàng trăm năm và sở hữu đất đai là của chung.
- Địa bàn sản xuất rộng lớn, phức tạp, đi lại khó khăn, do đó việc quản lý tài nguyên cũng như áp dụng
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất lâm nghiêp gặp nhiều khó khăn trở ngại.
- Sản xuất lâm nghiệp không những có ý nghĩa mang lại lợi ích kinh tế, mà nó còn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái.

Hiện nay, quan điểm về quản lý sử dụng đất đai và tài nguyên rừng đang dần dần quán triệt trên nguyên
tắc phát triển bền vững, đó là “Sự phát triển nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không
làm tổn hại đến những khả năng phát triển để thoả mãn những nhu cầu thế hệ tiếp theo” [2].
Phát triển bền vững phải đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo
vệ được môi trường sống. Đó không chỉ phát triển nền kinh tế - văn hoá - xã hội một cách vững chắc nhờ
vào khoa học công nghệ tiên tiến, mà còn đảm bảo ổn định và cải thiện những điều kiện tự nhiên mà con
người đang sống trong đó và chính sự phát triển đang dựa vào đó để ổn định bền vững Do đó, trong mỗi
điều kiện hoàn cảnh cụ thể và môi trường tài nguyên, con người phải tìm ra hướng phát triển tối ưu của
mình, nhằm bảo đảm lợi ích tổng hợp trên tách cả các mặt: Kinh tế, xã hội, và môi trường sinh thái.
Đất lâm nghiệp có địa hình phức tạp, đồi núi dốc là đối tượng chủ yếu trong sản xuất kinh doanh lâm
nghiệp, do đó vấn đề quan trọng trước tiên đặt ra là phải xác định được các biện pháp quản lý và sử dụng
đất dốc thích hợp, hạn chế xói mòn chống thái hoá đất, bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển lâu bền.
Để đảm bảo sử dụng tài nguyên theo hướng bền vững, ở mỗi nước mỗi khu vực đều tìm tòi lựa chọn cho
mình một chiến lược và chính sách quản lý thích hợp. Nhìn tổng quát, có xu hướng chung là gắn liền đất
đai và tài nguyên rừng với cư dân địa phương, phát triển một nền lâm nghiệp vì con người.
Trong những thập kỷ qua, việc quản lý bảo vệ và xây dựng một chiến lược phát triển lâm nghiệp ở các
quốc gia trên thế giới có nhiều chuyển biến, có thể tóm tắt những xu hướng trên thế
g
iới trong những thời
gian gần đây như sau:
- Chuyển từ nền lâm nghiệp khai thác lợi dụng rừng là chính sang thực hiện mục tiêu lợi dụng rừng kết
hợp cả ba lợi ích: kinh tế - xã hội - môi trường sinh thái, chú trọng nhiều hơn mục tiêu phát huy tác dụng
sinh thái của rừng.
- Phi tập trung hoá phân cấp quản lý Nhà nước về rừng chuyển giao dần trách nhiệm quyền lực về quản lý
rừng từ cấp trung ương xuống cấp địa phương và cơ sở.
- Đẩy mạnh giao đất giao rừng cho các hộ nông dân và cộng đồng giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước tạo
điều kiện cho việc quản lý rừng năng động hơn.
- Thu hút sự tham gia của các nhóm cộng đồng dân cư được hưởng lợi từ rừng. Khuyến khích họ tham gia
vào công tác quản lý rừng, phát huy rừng, các chương trình lâm nghiệp cộng đồng, các khu rừng bảo tồn
thiên nhiên, làng, bản.

Giao đất giao rừng cho các chủ thể địa phương là một trong những xu hướng chung của các nước trên thế
giới, trong đó có nước ta. Tuy nhiên ở mỗi nước, vấn đề này được triển khai thực hiện ở một mức độ khác
nhau và đem lại những kết quả khác nhau.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội, điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán canh tác của
mỗi dân tộc, mỗi quốc gia mà mỗi nước hình thành nên mỗi hệ thống quản lý, sử dụng đất đai khác nhau.
* Ở Thái Lan, sử dụng đất đai được thông qua chương trình làng rừng, hộ nông dân được giao đất nông
nghiệp, đất thổ cư, đất để trồng rừng. Người nông dân có trách nhiệm quản lý đất, không được chặt hoặc
sử dụng cây rừng. Người nông dân nhận đất được Chính phủ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên
đất rừng của Nhà nước ở những nơi phù hợp trồng cây nông nghiệp lưu niên, chính phủ Thái Lan hỗ trợ
xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, trạm y tế Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp phát, đã
làm tăng mức độ an toàn cho người thuê đất trong thời gian sử dụng. Do vậy đã ảnh hưởng tích cực đến
việc khuyến khích đầu tư và tăng sức sản xuất của đất [3].
* Ở NêPal Nhà nước cho phép chuyển giao một số khu rừng có diện tích lớn ở vùng núi trung du cho các
cộng đồng, thông qua tổ chức chính quyền cấp cơ sở, thành lập các thành viên uỷ ban về rừng cam kết
bảo vệ các khu rừng ở địa phương [3].
* Ở Ấn Độ vào những năm 70 của thế kỷ 20 Ấn độ đã phát triển lâm nghiệp xã hội (LNXH), năm 1986
Ấn Độ đã hoàn thành mục tiêu phát triển LNXH ở những bang khác nhau. Ấn Độ coi trọng cộng đồng như
một đối tác quản lý những vùng đất rừng của Chính phủ [3].
* Ở Trung Quốc: Sau 20 năm thực hiện cải cách và mở cửa lâm nghiệp Trung Quốc đã phát triển theo
hướng chủ yếu sau:
Chuyển dịch từ chế độ kinh doanh lâm nghiệp chỉ dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể
sang kinh doanh lâm nghiệp dựa trên nền kinh tế nhiều thành phần (Nhà nước, tập thể, cá nhân, hợp vốn
kinh doanh, hợp tác ).
Phát triển nhiều ngành công nghiệp chế biến lâm sản, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên rừng, chuyển
từ giai đoạn lấy gỗ làm mục đích sang coi trọng các mặt môi trường sinh thái hữu ích xã hội. Những chính
sách đổi mới về lâm nghiệp bao gồm: Cải cách và thay đổi chế độ sản quyền về rừng, từ tháng 3/1981
Trung Quốc đã đề ra chính sách “tam định” nhằm xác định rỏ ba vấn đề : Xác định quyền sử dụng đất đồi
núi (sơn quyền); xác định rừng (lâm quyền) và hoạch định diện tích đất lâm nghiệp để lại cho các hộ nông
dân sử dụng (tự lưu sơn). Trong đó xác định đất đồi núi là hạt nhân căn bản. Trong 4 năm, đã hoàn thành
cơ bản về chính sách “tam định” tiến hành cấp giấy chứng nhận lâm quyền 96,67 triệu ha đất lâm nghiệp,

hơn 56 triệu hộ được giao, hơn 31,33 triệu ha được tự lưu sơn, hơn 50,66 triệu đất đồi núi đã được giao
đến hộ. Đến cuối 1996 đã hoàn thành cấp giấy chứng nhận lâm quyền được 192 triệu ha. Trên cơ sở đó đã
phát triển nhiều hình thức trao đổi quyền sử dụng đất rừng, để khắc phục tình trạng đất đai, rừng núi bị
phân tán Trung Quốc đã ban hành nhiều luật pháp, chính sách kinh tế để tạo điều kiện thực hiện tốt việc
lưu chuyển và trao đổi quyền sử dụng đất lâm nghiệp [3].
* Ở Philíppin từ những năm 1970 Chính phủ đã quan tâm đến phát triển LNXH. Năm 1982 Chính phủ xây
dựng dự án LNXH quốc gia chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho cộng đồng. Một dạng hợp đồng sử
dụng của cộng đồng là hợp đồng thuê quản lý rừng được ký với các hộ gia đình, cộng đồng hoặc các
nhóm. Trong thời hạn thực hiện hợp đồng các chủ nhân của hợp đồng thuê quản lý rừng được phép thu
hoạch, chế biến sản phẩm, bán hoặc các hình thức sử dụng khác. Một dạng thứ hai của hợp đồng cộng
đồng Phi líp pin là công nhận quyền quản lý của dân tộc thiểu số trên mảnh đất tổ tiên họ để lại, người dâ
n
được ký hợp đồng với Chính phủ trong 25 năm và cũng có thể kéo dài trong 25 năm tiếp theo [3].
Vấn đề giao đất giao rừng giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển có sự khác nhau rất nhiều.
Tại các nước phát triển dân số tăng chậm, trái lại năng suất công nghiệp, nông nghiệp lại tăng nhanh nên
không có nạn thiếu đất cho nông nghiệp mà trái lại, ở các nước Tây Âu đang có vấn đề rút bớt đất nông
nghiệp để trả lại cho lâm nghiệp. Chế độ tư hữu ở các nước đó đã sản sinh ra một tầng lớp tiểu chủ đông
đảo về rừng.
* Ở Pháp rừng tư nhân chiếm khoảng 10 triệu ha, trong khi đó rừng Nhà nước chỉ chiếm khoảng 4 triệu
ha. Trong đó 10 triệu ha rừng tư nhân thì có một nữa thuộc về 1,5 triệu tiểu chủ đồn điền đất đai.
* Ở Thụy Điển 25% rừng và đất rừng thuộc về Nhà nước, 25% thuộc về các Công ty lớn còn 50% thuộc về tư
nhân, cá thể. Ở đây vấn đề giao đất giao rừng cho nông dân không được nêu lên.
* Ở Phần Lan có khoảng 2/3 tổng diện tích đất lâm nghiệp thuộc về quyền sở hữu tư nhân, khoảng
430.000 chủ rừng và mỗi chủ rừng ước tính khoảng 33 ha. Ở Phần Lan sở hữu cá nhân về rừng và đất
rừng mang tính truyền thống [3].
4.3. Các giai đoạn quản lý Lâm nghiệp
Các chính sách lâm nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lý đất lâm nghiệp, đặc biệt là trách nhiệm và
quyền lợi của các bên có liên quan trong quản lý tài nguyên rừng và đất rừng. Tuy nhiên các chính sách
luôn luôn thay đổi hoặc chỉnh sữa cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vì
vậy chúng ta có thể chia ra các giai đoạn lịch sử để phân tích tác động của các chính sách như sau:

Thời kỳ 1968 - 1982
Đây là thời kỳ phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trên cơ sở phát triển kinh tế quốc doanh và
hợp tác xã. Đất nông nghiệp, lâm nghiệp được giao cho hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và
hợp tác xã (kể cả tập đoàn sản xuất sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng), chưa giao đất cho hộ gia
đình.
- Các lâm trường quốc doanh (LTQD) là loại chủ rừng chủ yếu, được Nhà nước đầu tư để trồng rừng và
giữ quyền sở hữu chủ yếu khoảng 70% tổng diện tích rừng trồng tập trung theo kế hoạch của Nhà nước.
- Các hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) thời kỳ này đã tham gia trồng khoảng 29% diện tích rừng trồng tập
trung. HTXNN trồng rừng chủ yếu để nhận tiền công lao động do Nhà nước trả là chính. Chưa có quyền sở
hữu rừng trồng và chưa quan tâm đến kết quả rừng mình gây trồng nên. Tuy vậy, cũng có một số ít HTXNN sử
dụng nhân lực và nguồn vốn của mình để trồng rừng, nên có quyền sở hữu một số khu rừng và đã có thu nhập
từ rừng trồng do hợp tác xã đầu tư.
Thời kỳ 1982 - 1992
Vào những năm đầu 1980 là thời kỳ Nhà nước đang nghiên cứu thử nghiệm cải tiến quản lý hợp tác xã.
Trong ngành Lâm nghiệp, Nhà nước ta đã có chính sách giao đất giao rừng cho hợp tác xã và các hộ
gia
đình trong hợp tác xã để sản xuất nông, lâm nghiệp, nhất là vào giai đoạn cuối của thời kỳ này, chủ
trương, chính sách giao đất khoán rừng đến hộ gia đình đã cụ thể và đẩy mạnh hơn. Ngày 06/11/1982 Hội
đồng Bộ trưởng ra quyết định số 184 về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng
cây, gây rừng. Ban chấp hành Trung Ương Đảng ra chỉ thị số 29/CT-TƯ
(12/11/1983) về việc đẩy mạnh
giao đất giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh doanh theo nông lâm kết hợp.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc khoá VI (1986) Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới nền kinh tế từ cơ
chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, phát triển kinh tế hàng hoá gắn với
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước, chú trọng phát triển
kinh tế hộ gia đình, coi kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ bản tự chủ. Thông tư liên Bộ số 01/TT/LB
của Bộ lâm nghiệp và tổng cục quản lý ruộng đất ngày 6/02/1991 đã hướng dẫn việc giao rừng và đất
trồng rừng cho các tổ chức, cá nhân để sử dụng vào mục đích lâm nghiệp. Ngày 15/9/1992 Chủ tịch hội
đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 327-CT về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống, đồi núi
trọc, bải bồi ven biển và mặt nước, trong đó ban hành chính sách hổ trợ 40% tổng vốn đầu tư dần cho các

hộ gia đình vay theo nguyên tắc không lấy lãi. Việc hoàn trả vốn vay bắt đầu từ lúc có sản phẩm. Ngày
22/7/1992 Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 264/CT về chính sách đầu tư phát triển rừng.
Quyết định này giải quyết khó khăn về vốn cho nhân dân gây trồng cây lâm nghiệp ở vùng định canh định
cư, Nhà nước hổ trợ cho vay vốn không lấy lãi và cũng từ đây ngành lâm nghiệp đã cùng với các địa
phương vận dụng và thực hiện giao đất giao rừng đến các hộ dân, công nhân trong lâm trường. Vì vậy,
công tác giao đất, giao rừng trong thời kỳ này đã có những tiếp bộ đáng kể mang lại
n
hững khởi sắc cho
nghề rừng nước ta. Ở những nơi thực hiện đúng chính sách giao đất giao rừng, thì rừng đã có người làm
chủ cụ thể không còn tình trạng chủ rừng chung chung mà thực chất là vô chủ. Vì vậy người nông dân đã
yên tâm đầu tư vào việc kinh doanh rừng và bồi bổ đất đai. Nhiều nơi đã có sản phẩm hàng hoá, diện tích
đất trống đồi núi trọc đã được đưa vào khai thác sử dụng ngày càng tăng, nhiều mô hình sản xuất theo
phương thức nông lâm kết hợp, làm vườn rừng trang trại khá phổ biến ở nhiều địa phương. Qua nhận đất
nhận rừng đời sống nông dân được nâng lên khá rõ rệt. Những hộ nông dân và công nhân lâm trường nhận
đất, nhận rừng thu hoạch từ rừng vài chục triệu đồng hàng năm không còn là hiện tượng hiếm thấy, đó là
những tiến bộ bước đầu đáng khích lệ của công tác giao đất khoán rừng trong gai đoạn này, làm tiền đề
cho chuyển hướng ngành lâm nghiệp, từ lâm nghiệp quốc doanh sang lâm nghiệp xã hội ở nước ta.
Thời kỳ 1993 - 2003
Từ đầu năm 1993 Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các nghị quyết, chủ trương và chính sách nhằm thực
hiện triệt để công tác giao đất giao rừng.
Nghị quyết trung ương lần thứ 5 (1993) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nông thôn, đã nhấn mạnh:
“Đổi mới cơ chế quản lý ngành lâm nghiệp, thực hiện phổ biến việc giao khoán rừng và đất rừng phù hợp
với quy hoạch và phương thức phát triển từng vùng, từng loại rừng”
- Luật đất đai đã được Quốc hội thông qua ngày 14/7/1993 và có hiệu lực từ ngày 15/10/1993. Đây là một
sắc luật quan trọng về đất đai, cụ thể hoá điều 17,18 hiến pháp năm 1992, nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Việc Quốc hội thông qua luật đất đai, vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hữu toàn dân về
đất đai, vừa phù hợp với cách vận hành mới của một nền kinh tế hàng hoá, bắt đầu tiếp cận với cơ chế thị
trường hiện đại.
Nghiên cứu tổng quát những sửa đổi bổ sung về chính sách đất đai thời kỳ này có thể thấy những vấn đề
nổi bật cần chú ý sau đây:

+ Cũng cố tăng cường sở hữu toàn dân về đất đai, tăng cường vai trò quản lý thống nhất của Nhà nước.
+ Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích do
Nhà nước quy định.
+ Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất thu tiền khi giao đất hoặc
cho thuê đất, tính giá tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi.
+ Các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất đã được xác
định tạo cơ sở pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về sản xuất kinh
doanh trên đất được giao.
Tiếp theo đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 64-CP (1993) về giao đất nông nghiệp, Nghị định 02/CP
(1994) về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông
lâm nghiệp. Quyết định số 202/TTg (1994) về khoán quản lý bảo vệ rừng, nghành lâm nghiệp đã có thông
t
ư số 06-LN/KL(1994) về giao đất lâm nghiệp. Nghị định số 01/CP (01/11/1995) về giao khoán và sử
dụng vào mục đích nông lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, trong các doanh nghiệp Nhà nước. Quyết định
661/QĐ - TTg (29/7/1998) về chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Nghị định số 163/CP (16/11/1999)
thay thế cho Nghị định 02/CP về giao đất cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ gia đình cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Ngườ
i dân được nhận đất lâm nghiệp có quyền sử dụng,
thừa kế chuyển nhượng, thế chấp và chuyển đổi quyền sử dụng đất lâm nghiệp theo quy định của pháp
luật, hạn mức giao đất cho thuê đất cho hộ gia đình cá nhân do Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh quyết định
nhưng không vượt quá 30 ha. Thời hạn giao đất cho thuê đất cho tổ chức hộ gia đình cá nhân là 50 năm,
hết thời hạn này nếu tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vẫn có nhu cầu sử dụng đất đúng mục đích, thì được
nhà nước giao tiếp, nếu các loài cây trên 50 năm thì sau 50 năm Nhà nước sẽ giao tiếp đến khi thu hoạch
sản phẩm chính.
Thời kỳ 2003 đến nay
Trên quan điểm tiếp cận quản lý nguồn tài nguyên có sự tham gia, đặc biệt quản lý nguồn tài nguyên dựa
vào cộng đồng. Đối với ngành lâm nghiệp trong chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001-2010, Bộ
NN & PTNT đã đề ra các giải pháp về cơ chế chính sách; trong đó có một số điểm liên quan đến phát
triển LNXH như sau:
· Xác định rõ quyền sử dụng đất đai và tài nguyên rừng cho các Tổng công ty, Công ty lâm nghiệp, các

lâm trường quốc doanh, các thành phần kinh tế khác và các hộ gia đình để ổn định sản xuất lâu dài.
· Từng bước tiến hành giao đất và phát triển rừng cộng đồng trên cơ sở nghiên cứu cơ chế và ban hành
các quy định cụ thể trong việc bảo vệ, phát triển, sử dụng và kinh doanh các loại hình rừng này.
· Trong phần đất lâm nghiệp giao cho từng gia đình, thúc đẩy phát triển nông lâm kết hợp, góp phần xoá
đói giảm nghèo.
· Mở rộng và củng cố quyền của người được giao đất, thuê đất cũng như làm rõ và đơn giản hoá thủ tục
để có thể thực hiện các quyền của người sử dụng.
Định hướng của chính sách lâm nghiệp đã được đề cập trong giai đoạn này nhằm mục đích:
· Bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng hiện tại và tương lai một cách bền vững trên cơ
sở đáp ứng các nhu cầu của quốc gia về sản phẩm và bảo vệ môi trường.
· Nâng cao sản lượng và cải tiến khai thác, vận xuất, vận chuyển, chế biến, hệ thống thị trường các sản
phẩm từ rừng để giảm lãng phí, nâng cao lợi ích kinh tế, xã hội và xuất khẩu.
· Nâng cao sự tham gia của người dân và có sự cam kết của tất cả các thành phần kinh tế (Nhà nước,
hợp tác xã, hộ gia đình, công ty tư nhân, và cá nhân) trong bảo vệ, sản xuất và sử dụng hợp lý các sản
phẩm rừng và các lợi ích về môi trường.
· Góp phần cải tiến điều kiện sống và thu nhập của người dân nông thôn và đặc biệt là người dân và các
cộng đồng dân tộc miền núi.
Mục đích cuối cùng là các chính sách lâm nghiệp được chấp nhận bởi người dân và các cơ quan Nhà
nước sẽ chia sẽ quyền và trách nhiệm đối với các khu rừng sản xuất và phòng hộ. Với mỗi vùng kinh tế
cần tạo ra cơ hội để có được sự tham gia một cách đầy đủ trong phân chia lợi ích của các sản phẩm và
môi trường từ tài sản rừng quốc gia.
Các mục tiêu và chiến lược của chính sách lâm nghiệp quốc gia là:
Xây dựng lâm phận quốc gia gồm có rừng và đất rừng, nuôi dưỡng và quản lý chúng phù hợp với mục
đích xã hội và môi trường của quốc gia, tuân theo các chính sách lâm nghiệp và Luật bảo vệ và phát triển
rừng
Xây dựng kế hoạch bảo vệ và quản lý rừng cho các nguồn tài nguyên rừng quốc gia, và đáp ứng được nhu
cầu lập kế hoạch và quản lý cho từng địa phương.
Có sự cam kết tuân theo các chính sách lâm nghiệp, luật và các quy chế của tất cả các thành phần xã hội
trong các hoạt động quản lý tài nguyên rừng
Cải tiến việc khai thác, vận chuyển, chế biến và thị trường các sản phẩm từ rừng để giảm sự lãng phí và

nâng cao hiệu quả sử dụng trong nước, nhập và xuất khẩu.
Xây dựng các cơ chế hành chính, tổ chức để thực hiện bảo vệ môi trường và phát triển ngành lâm nghiệp
bền vững
Thực hiện và duy trì một mức tài chính và đầu tư thích đáng cho ngành lâm nghiệp từ nguồn nhà nước và
tư nhân để hoàn thành mục đích và các mục tiêu của chính sách lâm nghiệp quốc gia. Ưu tiên cao về bảo
vệ môi trường trong quản lý tất cả các loại rừng và đấ
t rừng
Hợp tác giữa các ngành để cải tiến điều kiện sống của người dân sống trong và gần rừng Nhà nước, đặc
biệt là ở các vùng miền núi
Trong 19 triệu ha đất rừng: Hơn 13 triệu ha đã bị bị tàn phá, đang bị bỏ hóa, đất đai bị xói mòn và không
sản xuất được à Nguyên nhân: sự gia tăng dân số đã gây nên áp lực lớn đến tài nguyên rừng, khai thác gỗ
bất hợp pháp, canh tác n
ương rẫy, khai thác gỗ củi đã góp phần cho việc suy giảm diện tích rừng khoảng
200.000 ha trong một năm. Mặc khác công nghiệp chế biến gỗ chưa được phát triển mạnh, sản phẩm chế
biến giá trị thấp chưa chiếm lĩnh được thị trường xuất khẩu.
à Việc bảo vệ các diện tích rừng hiện có thông qua trồng rừng, sản xuất nông lâm kết hợp và các chương
trình trồng các cây khác là nhiệm vụ chính của quốc gia để tiếp tục phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường.
Chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp năm 2001 (FSSP) đã xây dựng một khung logic để hỗ trợ phát triển
lâm nghiệp trong những năm đến, có 9 kết quả chính đã được dự kiến; trong đó có kết quả mong đợi thứ
hai liên quan đến phát triển cơ chế chính sách liên quan đến lâm nghiệp là “Có khuôn khổ chính sách,
pháp luật và thể chế để làm hài hoà các chính sách của quốc gia-tỉnh về đất rừng và sử dụng tài nguyên”.
Một số chỉ thị quan trọng trong phát triển chính sách đã được cam kết như là:
· Khái niệm “lâm nghiệp nhân dân” được làm rõ và đưa vào tất cả các văn bản chính sách liên quan, đặc
biệt chính sách lâm nghiệp cộng đồng được ban hành năm 2003.
· Đến năm 2004 các chính sách hưởng lợi được cải cách và ban hành.
Nhìn chung trong giai đoạn này, Nhà nước đã đầu tư nguồn lực để bàn hành và sữa đổi nhiều chính sách
liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng như Luật đất đai, Luật quản lý bảo vệ và phát
triển rừng. Quy chế (08) quản lý 3 loại rừng. Nghị định 178 về chế độ hưởng lợi của người dân khi tham
gia bảo vệ và phát triển rừng. Nghị định 163 về giao khoán đất lâm nghiệp cho hộ gia đình và các tổ chức.

Mặt khác trong quá trình tiếp cận, nhiều hoạt động đã chú trọng đến sự tham gia của cộng đồng trong
quản lý nguồn tài nguyên hoặc quản lý nguồn tài nguyên dựa vào cộng đồng như QHSD đất và giao đất
Lâm nghiệp có sự tham gia, quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Những nghị quyết, quyết định và chỉ thị trên đây đã đánh dấu sự thay đổi cơ bản trong chủ trương đường
lối của Đảng và Nhà nước ta, công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của kinh tế hộ gia đình,
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo bình đẳng quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, bảo hộ
quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp pháp của các hộ gia đình, cá nhân trên diện tích đất lâm nghiệp
được giao. Đây chính là động lực trực tiếp kích thích người dân yên tâm nhận đất nhận rừng để sản xuất
kinh doanh, kinh tế hộ gia đình có điều kiện phát triển hơn. Mỗi người dân nói chung, đặc biệt là nông dân
miền núi, rất phấn khởi thực hiện chính sách này. Chủ trương giao đất lâm nghiệp của Đảng và Nhà nước
đến nay đã đi vào cuộc sống của người dân miền núi bao đời nay gắn bó v
ới rừng.
Giao đất lâm nghiệp ở nước ta được hình thành như là một cấu thành quá trình đổi mới kinh tế hiện nay.
Muốn quản lý bảo vệ và phát triển rừng thì mỗi khu rừng phải có chủ rừng, và chủ rừng phải có lợi ích
thực sự từ rừng và nghề rừng.
Thực tế cho thấy: Thông qua kết quả giao đất giao rừng cho ở nhiều địa phương trong cả nước đ
ã thực
hiện tốt công tác bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc tăng độ che phủ của rừng, tạo các vùng cây
công nghiệp, cây ăn quả, cây nguyên liệu tập trung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, nâng cao
đời sống nhân dân trong vùng, điển hình làm tốt như các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Thanh Hoá,
4.4. Phân tích về một số điểm trong các chính sách liên quan
Từ sau khi có Luật đất đai năm 1993, luật phát triển bảo vệ rừng và một số chính sách mang tính pháp lý
đã thực sự thu hút sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế. Nó đã đề cập và đưa ra những qui định, quyết
định cần thiết, hợp ý dân trong thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên một số tồn tại đã bộc lộ trong quá trình thực hiện chính sách như:
Chính sách giao đất cho người dân đã có, nhưng tại sao thực hiện lại không có hiệu quả và Còn nhiều
vướng mắc. Giữa chính sách và thực hiện có gì là bất cập? Vì sao việc cấp giấy phép về quyền sử dụng đất
lại khó khăn đến vậy?
Việc Nhà nước “cho thuê đất” mà đối tượng được thuê là tổ chức/hộ gia đình/cá nhân trong nước và
ngoài nước đồng thời lại xác lập quyền cho thuê/chuyển đổi/chuyển nhượng quyền sử dụng đất Liệu

có kẻ hở trong chính sách hay không? Có cần thêm những qui định cụ thể cho điều này?
Trong 2 Nghị định 01/CP (giao khoán đất lâm nghiệp của các lâm trường cho các hộ gia đình), Nghị định
02/CP (giao đất Lâm nghiệp lâu dài cho các tổ chức và cá nhân) thì đã có tiêu chí để đưa ra khái niệm đất
nông nghiệp? và đất lâm nghiệp? Hơn nữa có thể cùng 1 nơi vừa là đất nông nghiệp, vừa là đất lâm nghiệp
(ví dụ vùng đất cát: Trồng rừng, trồng cây nông nghiệp? Đất để tiến hành sản xuất Nông Lâm kết hợp)
Hệ thống giải pháp nào? Chính sách hỗ trợ nào? để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng đất có sự tham
gia.
Chủ trương giao đất lâm nghiệp khoán rừng đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện từ năm 1968, qua
mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước lại có những điều chỉnh, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tế. Vì vậy,
việc giao đất, khoán rừng trong từng giai đoạn cũng có sự khác nhau về phạm vi, quy mô, mức độ và kết quả đạt
được. Nhìn tổng quát kết quả về hoạt động giao đất lâm nghiệp ở nước ta đã đạt được thành quả nhất định qua
các giai đoạn sau:
Từ 1968-1992: Những chính sách xây dựng nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất ở niềm núi có nhiều mặt
không phù hợp, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp lâm nghiệp làm rập khuôn như đồng bằng là không
phù hợp với tích chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở niền núi. Khoán 10 đối với đồng bào
miền núi được hiểu như là sự giải thể hợp tác xã nông nghiệp, các hộ gia đình nhận lại ruộng đất, rừng của
mình trước khi vào hợp tác xã tình trạng này dẫn đến tranh chấp đất đai giữa các cộn
g
đồng đân cư tron
g
thôn bản, giữa dân địa phương với dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế mới tuy nhiên hiệu quả chính
sách giao đất giao rừng trong thời kỳ này chưa cao nhưng chính sách giao đất giao rừng đã khuyến khích
tạo động lực phát triển nông lâm nghiệp ở miền núi, bước đầu đã hình thành nên thị trường ở trung du, ở
niền núi đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa chính sách giao đất lâm nghiệp còn nhiều hạn chế.
Qua thực tế cho thấy ở nhiều nơi sau khi tập thể, hộ gia đình, cá nhân nhận rừng mà tổ chức kinh doanh
đã có thu nhập từ rừng đáng kể, do xác định được cơ cấy cây trồng thích hợp với điều kiện khí hậu đất đai
ở nhiều địa phương: Quế Quảng Nam, Quảng Ninh,
Qua 24 năm thực hiện giao đất giao rừng (1968-1992) đã giao được tổng số trên 11 triệu ha trong đó 5,8
triệu ha giao cho quốc doanh, 1,3 triệu ha giao cho hộ gia đình, 3,7 triệu ha giao cho hợp tác xã nông
nghiệp trên thực tế mới sử dụng 30% diện tích giao số còn lại vẫn không được khai thác bảo vệ vẫn còn

hoang hoá, thực trạng này chứng tỏ chủ trương giao đất giao rừng trong giai đoạn này chưa tạo điều kiện
tích cực trong việc quản lý bảo vệ rừng và phát triển tài nguyên rừng. Nguyên nhân của những hạn chế đó:
- Đời sống nhân dân còn quá nghèo lại thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước, nên sản xuất kinh doanh lâm nghiệp
gặp nhiều khó khăn, mặt khác nghề rừng đối với miền núi chủ yếu là hái lượm và khai thác những sản
phẩm sẵn có để giải quyết đời sống hàng ngày, cho nên khi giao đất giao rừng họ lại tự do khai thác nhiều
hơn làm cho rừng bị nghèo kiệt.
- Thị trường ở miền núi chưa phát triển, nên chưa kích thích được quá trình s
ản xuất kinh doanh trên phần
đất được giao.
- Tập quán canh tác còn lạc hậu, chưa chuyển giao được phương thức canh tác tiên tiến trên đất dốc cho
người dân miền núi, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để thực hiện điều đó vẫn còn hạn chế.
- Việc thực hiện giao đất giao rừng đến các hộ dân cư chưa được các ngành chức năng, chính quyền địa
phương thự
c hiện nghiêm túc, như còn giao để lấy thành tích, mà không tính đến khả năng của người nhận
đất, chưa có sự thống nhất về nội dung, kỹ thuật biện pháp giao rừng từ Trung Ương đến địa phương trong
phạm vi cả nước đã dẫn đến nhiều cách hiểu, cách vận dụng, cách làm khác nhau. Vì vậy chưa tạo được
yên tâm cho người dân đầu tư sản xuất trên rừng đất rừng được Nhà nước giao. Do vậy giao đất giao rừng
trong thời kỳ này chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, sau đó phải giao đi giao lại, hậu quả dẫn đến
mất rừng.
Từ 1993 - 2003: Đây là giai đoạn có những thay đổi cơ bản trong quản lý sử dụng rừng và đất rừng ở Việt
Nam, đó là sự ra đời của Luật đất đai, Nghị định 02/CP, nghị định 01/CP, Nghị định 163/CP công tác
giao đất lâm nghiệp đã được thực hiện theo những nguyên tắc và quy định mới.
Theo số liệu tổng hợp của Cục kiểm lâm, đến cuối năm 1999 cả nước giao được 8.786.572 ha đất lâm
nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đạt 59% tổng diện tích quy hoạch cho sản xuất lâm nghiệp,
bao gồm:
Trong quy hoạch đất lâm nghiệp 3 loại rừng theo mục đích sử dụng:
+ Rừng đặc dụng 2.119.547 ha đã giao được 972.375 ha chiếm 46%.
+ Rừng phòng hộ với diện tích quy hoạch 6,8 triệu ha, đã giao được 3.196.343 ha chiếm 47%.
+ Rừng sản xuất 9,6 triệu ha, đã giao với diện tích 4.617.872 ha chiếm 48%.
Trong đó giao cho 27.312 tổ chức, với diện tích 6.179.913 ha, giao 452.168 hộ gia đình, cá nhân với diện

tích là 2.606.659 ha.
Cấp giấy quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho 1.368 tổ chức, 200.168 hộ gia đình, cá nhân với tổng diện tích
là 1.173 ha mới chiếm 13% tổng diện tích đã giao.
Nói chung kết quả giao đất lâm nghiệp trên đã cho rừng có chủ thực sự, tạo ra nhiều loại hình sở hữu rừng
(rừng Nhà nước, rừng tập thể, rừng cộng đồng và rừng hộ gia đình ) tạo điều kiện khai thác tiềm năng đất
đai, lao động, nguồn vốn tại chổ. Cùng với các chính sách tích cực khác của Nhà nước trong thời gian qua
đã làm cho độ che phủ của rừng tăng lên nhanh chóng, từ năm 1992 đến năm 1999 độ che phủ của rừng
tăng từ 28% lên 33,31%. Đã hình thành hàng ngàn trang trại nông lâm nghiệp, mô hình kinh tế hộ gia đình
có hiệu quả kinh tế cao, hạn chế tình trạng phá rừng làm nương rẫy, rừng được bảo vệ tốt hơn vì đã có
người làm chủ thực sự. Trồng rừng được đảm bảo với tỷ lệ thành rừng cao, tạo công ăn việc làm nâng cao
thu nhập và cải thiện đời sống của nhân dân, một bộ phân dân cư đã giàu lên từ nghề rừng, mở ra hướng
sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ ở nhiều nơi, góp phần xoá đói giảm nghèo, từng bước góp
phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp, bên cạnh những kết quả đạt
được còn một số hạn chế trên một số mặt sau đây:
- Ở một số địa phương thực hiện giao đất khi chưa có quy hoạch sử dụng đất, thực hiện không đúng quy
trình giao đất lâm nghiệp, không giao đúng đối tượng, thậm chí một số nơi trong quá trình thực hiện còn
nhầm lẫn giữa giao đất theo Nghị định 02/CP và khoán theo Nghị định 01/CP; giao sai thẩm quyền, một số
lâm trường cũng đứng ra giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, giao cả vào rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
xung yếu và rất xung yếu, không coi trọng việc bàn giao ranh giới ngoài thực địa, dẫn đến tình trạng sau
khi giao nhiều hộ gia đình, cá nhân không xác định được ranh giới đất của mình ở ngoài thực địa
- Việc xác định giúp các hộ gia định hướng sử dụng đất sau khi giao còn hạn chế, chung chung, thiếu cụ thể, dẫn
đến tình trạng sau khi giao đất hộ gia đình không xác định được mục tiêu sản xuất cũng như xác định được cây
trồng sao cho phù hợp với điều kiện lập địa ở địa phương.
4.5. Một số chính sách quan trọng đến quản lý bảo vệ rừng
4.5.1. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
Luật bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội thông qua năm 1991. Một số nội dung liên quan đến các
hoạt động LNXH như sau:
· Nhà nước thống nhất quản lý rừng và đất trồng rừng. Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng cho tổ chức,
cá nhân (chủ rừng) để bảo vệ, phát triển và sử dụng ổn định lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà

nước (điều 2).
· Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, rừng được phân làm các loại sau đây (điều 6):
- Rừng phòng hộ/ Rừng đặc dụng/ Rừng sản xuất
· Việc quyết định giao rừng, đất trồng rừng phải căn cứ vào điều 10
- Quy hoạch và kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng và sử dụng rừng, đất trồng rừng đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Quỹ rừng, quỹ đất trồng rừng.
- Yêu cầu khả năng của tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng rừng, đất trồng rừng.
· Chủ rừng có những quyền lợi sau đây: (điều 40):
- Được sử dụng rừng, đất trồng rừng ổn định, lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước; được chủ
động trong sản xuất kinh doanh, trong quản lý, sử dụng rừng theo quy định của pháp luật.
- Được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích rừng, đất trồng rừng được giao, được
thừa kế, chuyển nhượng, bán thành quả lao động, kết quả đầu tư cho người khác theo quy định của pháp
luật.
- Được hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của Nhà nước.
· Chủ rừng có những nghĩa vụ sau đây (điều 41):
-
Sử dụng rừng, đất trồng rừng đúng mục đích, đúng ranh giới đã quy định trong quyết định giao rừng,
đất trồng rừng và theo quy chế quản lý, sử dụng đối với từng loại rừng.
-
Chấp hành quy định của pháp luật về quản lý bảo vệ, phát triển rừng và sử dụng đất trồng rừng.
Điều quan trọng của luật bảo vệ phát triển rừng được sữa đổi năm 2005 là đã đề cập đến rừng cộng đồng
và giao rừng cho cộng đồng quản lý, đây là một chủ trương quan trọng về xã hội hoá ngành lâm nghiệp
nhằm tăng hiệu quả quản lý rừng và đất rừng.
4.5.2.Quyết định 178/2001/QĐ-TTg
Quyết định 178/2001/QĐ-TTg đã đề cập đến quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được
giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. Đây là một quyết định mang đến lợi ích cho người
dân tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Phân chia sản phẩm chính
Ä Căn cứ

- Gỗ: UBND tỉnh quy định, nhưng phải tuân theo khung tỷ lệ được quy định tại các điều 5, 6, 7, 8, 14, 15,
16, 17, 18, 19, 20 của QĐ 178/2001/QĐ-TTg
- Sản phẩm hàng năm: UBND tỉnh quy đinh mức hưởng lợi
- Lâm sản để phân chia là khối lượng lâm sản thực tế khai thác và tập trung tại bãi giao (hoặc kho) lâm
sản
- Bãi giao (hoặc kho) lâm sản là địa điểm tập trung lâm sản sau khai thác và vận xuất. UBND tỉnh quy định địa
điểm bãi giao
Ä Hình thức phân chia
- Hình thức I (áp dụng đối với hộ gia đình được giao rừng và đất lâm nghiệp): Hộ gia đình được hưởng
toàn bộ số lâm sản tại bãi giao và phải nộp vào ngân sách Nhà nước khoản tiền tương ứng với số lâm sản
được phân chia và các khoản thuế theo quy định hiện hành.
B = T
g
- T
th
- T
ns
T
ns
= K
ls
x G
c
x T
lx
T
th
= K
ls
x G

g
x T
tg
Trong đó: B: Khoản tiền hộ gia đình được hưởng
T
g
: Số tiền bán gỗ tại bãi giao. T
th
: Thuế tài nguyên. T
ns
: Tiền nộp ngân sách
K
ls
: Khối lượng LS khai thác tại bãi giao. G
c
: Giá cây đứng G
g
: Giá gỗ tại bãi giao
T
lx
: Tỷ lệ nộp NS xã T
tg
: Tỷ lệ nộp thuế tài nguyên
Đối với hộ gia đình nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp
- Hình thức II: Bên giao khoán (hoặc hộ gia đình) nhận toàn bộ số lâm sản tại bãi giao, trả cho hộ gia đình
(hoặc bên giao khoán) bằng tiền tương ứng với số lâm sản mà họ được hưởng, và phải chịu trách nhiệm
nộp thuế
- Hình thức III: Mỗi bên nhận sản phẩm phân chia tại bãi giao theo tỷ l
ệ quy định và chịu trách nhiệm nộp
thuế tương ứng với phần lâm sản được hưởng.

Quản lý và chi phí khai thác lâm sản
Ä Hộ gia đình được giao hoặc nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp khi được phép khai thác chính được tự
tổ chức hoặc thuê khai thác
Ä Hộ gia đình được giao rừng và đất lâm nghiệp phải chịu toàn bộ chi phí liên quan đến khai thác lâm sản
Ä Hộ gia đình nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp chỉ chịu chi phí liên quan đến khai thác lâm sản mà
hộ gia đình được hưởng.
Quản lý và sử dụng các sản phẩm được phân chia: Hộ gia đình; Doanh nghiệp Nhà nước; BQL rừng
phòng hộ; BQL rừng đặc dụng và cấp xã
Cấp phát kinh phí trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng: Kinh phí ngân sách theo Thông tư số 43/2002
/TT-BTC ngày 7/5/2002 của Bộ tài chính về hướng dẫn quản lý, cấp phát vốn ngân sách cho Dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng
4.5.3. Các chính sách khác
- Nghị quyết 8 - Quốc hội khoá X ngày 29/11/1997 - phiên họp lần 2 về dự án trồng mới 5 triệu ha rừng
giai đoạn 1998-2010.
- Luật đất đai ngày 14/07/1993 và luật sửa đổi bổ sung một số điều luật đất đai ngày 02/12/1998; Luật đất
đai đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003 tại khoá XI, kỳ họp thứ 4 của quốc hội có hiệu lực từ ngày
01/7/2004.
- Nghị định 01/CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ về việc quy định việc giao khoán đất sử dụng vào mục
đích sản xuất nông-lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước
- Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 21/01/2002 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
- Nghị định 139/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
- Quyết định 178/2001/QĐ-TT ngày 12/11/2001 của Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia
đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT/BNN-BTC của Bộ NN & PTNT và Bộ Tài Chính ngày 03/09/2003
về “Hướng dẫn thực hiện quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chí
n
h phủ về
quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, đựơc thuê, nhận khoán rừng và đất lâm

nghiệp”.
Thông tư 56/1999/TT/BNN-KL ngày 30/03/1999 của BNN&PTNT hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ
và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, ấp.
- Thông tư liên tịch 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC ngày 06/06/2000 của BNN&PTNT và TCĐC hướng dẫn
việc giao đất, cho thuê đất, và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Qui định 1171- QĐ về qui chế quản lý các loại rừng: Sản xuất, phòng hộ, đặc dụng ngày 30/12/1986.
Theo Qui định này rừng và đất rừng ở Việt Nam được thống nhất chia làm 3 loại: Sản xuất, phòng hộ và
đặc dụng. Trong quy định này ghi rõ cơ chế quản lý, quy hoạch 3 loại rừng, chức năng nhiệm vụ của từng
loại rừng trong phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường ở địa phương và trong cả nước.
Nghị định 02/CP về giao đất Lâm nghiệp cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng vào mục đích Lâm
nghiệp, ban hành ngày 15/1/1994. Đây là nghị định đầu tiên của chính phủ hướng dẫn giao đất lâm nghiệp
đến nhiều thành phần kinh tế khác nhau, trong đó hộ gia đình, cá nhân cũng được tham gia nhận đất để tổ
chức sản xuất lâm nghiệp. Đến năm 1999, Chính phủ đ
ã ban hành nghị định 163/CP, mở rộng việc giao
rừng và đất rừng, quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người nhận đất, nhận rừng.
Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg ngày 16/1/1999 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện trách nhiệm
quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp.
Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho t

chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Đây là nghị định tiếp theo
nghị định 02, với tên gọi đất lâm nghiệp: Rừng tự nhiên, rừng trồng, đất chưa có rừng quy họach cho lâm
nghiệp
Quyết định số 202/TTg ngày 2-5-1994 về quy định khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng
rừng. Các hộ gia đình nhận khoán rừng được hưởng công khoán, tận thu sản phẩm phụ, lựa chọn hình
thức nhận khoán, kết hợp sản xuất nông nghiệp khi rừng chưa khép tán, được mua gỗ làm nhà.
Quy chế 08 về quản lý 3 loại rừng (phòng hộ, đặc dụng và sản xuất) đã có tác dụng quản lý tốt tài nguyên
rừng và đất rừng.
Nhìn chung các chính sách là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình sử dụng và quản lý
tốt đất lâm nghiệp. Có thể phân chính sách thành 2 nhóm chính: 1) Nhóm chính sách tác động trực tiếp
vào quản lý tài nguyên rừng và đất rừng và 2) Nhóm chích sách tác động vào phát triển nông thôn/các

cộng đồng sống gần rừng.
Trong quá trình thực thi các chính sách trực tiếp và gián tiếp đều bọc lộ các điểm mạnh và điểm yếu, vì
vậy các nghiên cứu hiện nay cần tập trung đánh giá tác động của các chính sách là rất cần thiết cho từng
giai đoạn phát triển để từng bước cải tiến chính sách cho phù hợp.

×