Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

PHÂN TÍCH LÒNG YÊU THƯƠNG VÀ QUÝ TRỌNG VỢ CỦA TÚ XƯƠNG BÀI THƠ “THƯƠNG VỢ”_2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.08 KB, 8 trang )

PHÂN TÍCH LÒNG YÊU THƯƠNG VÀ QUÝ TRỌNG
VỢ CỦA TÚ XƯƠNG BÀI THƠ “THƯƠNG VỢ”

Các nhà nghiên cứu đã nói về việc Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò
trong ca dao xưa để nói về nỗi vất vả đơn chiếc và sự chịu thương, chịu
khó, hi sinh thầm lặng của bà Tú:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non

So với ca dao, câu thơ của Tú Xương có nhiều cái mới. Cái mới thứ nhất
là việc đưa động từ “lặn lội” lên đầu câu, khiến câu thơ trở nên có sức
nặng hơn khi khắc sâu nỗi vất vả đơn chiếc của bà Tú giữa cái rợn ngợp
của không gian. Cái mới thứ hai, cũng là sáng tạo mang tính chất thời
đại, là sự tiếp tục của chủ nghĩa nhân đạo vì con người và phát hiện ra
con người của văn học thế kỷ XVIII - XIX, khi nhà thơ chuyển từ “con cò”
trong ca dao thành “thân cò” để chỉ cả một kiếp người, nhấn mạnh đến
thân phận người phụ nữ. Chữ “thân” luôn gợi cảm giác nhỏ bé tội
nghiệp, bơ vơ chịu đựng. Nữ sĩ Xuân Hương khi xưa đã từng ngậm ngùi
viết:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.

Ở người phụ nữ xưa, “thân” luôn gắn với “phận”, chính vì vậy mà thi
hào Nguyễn Du đã bao lần phải thốt lên:

Đau đớn thay phận đàn bà

Và nàng Kiều của ông trong những tháng ngày nhơ nhuốc đã phải tạm
cúi đầu chấp nhận số phận:


Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.

Những vấn đề xã hội về thân phận con người đến Tú Xương đã trở nên
gần gũi hơn khi nhà thơ nhận thấy điều đó hiện hữu ngay trong những
người thân của mình và ám ảnh trong chính bản thân mình, một kẻ lỡ
thời vô tích sự. Điều thứ ba là nếu trong ca dao mới chỉ có cái heo hút
của không gian thì “thân cò” trong thơ Tú Xương còn ở giữa sự rợn
ngợp của thời gian. “Khi quãng vắng” khác với “nơi quãng vắng”, “ở
quãng vắng”, nó diễn tả được cả cảm giác đơn lẻ đầy hiểm nguy về
không gian và nỗi khắc khoải côi cút về thời gian của sự vất vả, tảo tần.

Ta như thấy đằng sau mỗi câu chữ là ánh mắt lo âu đầy ăn năn tự vấn
của người chồng đang dõi theo bóng dáng lẻ loi, lam lũ của người vợ
trên con đường gập gềnh sương gió, giữa thời buổi của sự bon chen và
tình đời bạc bẽo:

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Đó thực sự là cuộc chiến âm thầm và dai dẳng giữa kì kèo, đôi co, chen
chúc, bất chấp cảnh “đò đầy” để giành giật miếng cơm manh áo cho
con, để đổi lại sự thong dong nhàn nhã cho chồng. Chuyến đò đầy gian
nan nguy hiểm đó giống như chính cuộc đời đầy vất vả của bà Tú vậy:
biết đò đã đầy, chất chứa bao hiểm nguy, văng vẳng bên tai lời mẹ dặn
“đò đầy chớ qua” mà vẫn cứ phải dấn thân, phải bước tới, phải vật lộn.
Hai từ láy “lặn lội”, rồi “eo sèo” được đảo lên đầu câu càng như nhấn
mạnh thêm nỗi cực nhọc, lam lũ trong bươn trải kiếm sống của người
phụ nữ này.

Phải nói rằng, nghệ thuật bình đối trong hai câu thực đã góp phần quan

trọng vào việc dựng lại chân dung con người cả về thể chất lẫn tinh
thần và công cuộc làm ăn kiếm sống không một phút ngơi nghỉ trong
mọi bối cảnh gian khó của bà Tú. Hai câu thơ cũng dựng lại không khí và
khung cảnh buôn bán của thành Nam một thời. Thơ thất ngôn bát cú có
kết cấu chặt chẽ nhưng nghệ thuật bình đối và việc chọn lọc từ ngữ tinh
giản đã giúp cho những hình ảnh được xây dựng từ đây có sức gợi tả
nổi bật. Tài năng của Tú Xương là ở chỗ đã đưa được vào trong thể thơ
gò bó này rất nhiều chi tiết chân thực và sinh động từ cuộc sống một
cách rất tự nhiên. Việc tận dụng một cách triệt để những thế mạnh của
thể thơ đã khiến cho mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh đều trở nên chói sáng
mà nhịp thơ vẫn phát triển hài hòa, nhịp nhàng. Tinh hoa của một thể
thơ phát triển và dân tộc hóa đã gần một nghìn năm được kết tinh lại
trong một con người, trong một bài thơ. Thương vợ chính là dấu nối
giữa hai thế kỷ thơ Việt, nối truyền thống với hiện đại.

Nếu ở hai câu đề và hai câu thực, nhà thơ còn đứng ngoài để miêu tả,
thì đến hai câu luận Tú Xương đã nhập thân vào nhân vật để diễn tả
một cách chân tình nỗi niềm sâu kín của bà Tú. Người chồng đầy tình
nghĩa này đã phân thân ở nhiều điểm nhìn khác nhau để nhìn cho thấu,
cho hết công lao thầm lặng của người vợ:

Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Ông bà lấy nhau đã có tới năm mặt con kể ra cũng là một mối lương
duyên “trời” ban. Ông Tú lại lại là người có tài có tình. Bà đã từng khen
thơ ông “Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài” và đôi lúc cũng được “nở
mặt nở mày” với đời vì ông. Nhung duyên thì có một mà nợ lại những
hai. Niềm cay cú của ông đối với việc thi cử và kéo theo đó là cái nghèo
đeo đuổi đã khiến bà phải lăn lộn kiếm sống. Thêm vào đó ông lại là

một kẻ khác đời, dở người và những “thói hư, tật xấu” cứ theo đuổi
ông suốt cuộc đời. Nói đến “nợ” là nói đến sự đau khổ, xui xẻo phải
gánh chịu. Ông Tú tự nhận mình là cái “nợ” của đời bà, ông thương cảm
cho bà và tự dằn vặt mình. “Âu” là cam, “đành” cũng là cam, hai lần
cam chịu. “Âu đành phận” giống như một cái gật đầu nhẫn nhục chịu
đựng, cái nợ đời như một sự tất yếu không thể không chấp nhận. Điều
kỳ diệu là người mẹ, người vợ đó không hề ý thức rằng đó là sự hy sinh.
Như bao người phụ nữ Việt Nam khác, bà làm mọi việc một cách tự
nhiên, nhi nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, oán trách. Dám quản công
vừa là thái độ không hề ngần ngại, lại vừa chứa đựng cả cái ý khiêm
nhường, không muốn nhắc đến sự khó nhọc của mình. Cách nói cam
chịu số phận là cách ông Tú cảm thương thay cho vợ chứ bà đâu có tính
đếm công lao của mình. Hình tượng bà Tú như càng trở nên vị tha,
nhân hậu hơn qua mỗi dòng thơ. Tú Xương cũng rất có tài dùng số từ
để làm tăng giá trị của hình ảnh, câu chữ. Lúc đầu là số cộng (năm con
với một chồng) nhưng số cộng này khá đặc biệt ở chỗ: cộng thêm một
cách có lợi cho vợ bằng cách trừ đi (kể ra) những cái vô tích sự của
chồng. Cái cộng đó tưởng như là “thừa” ra mà thực chất là thêm vào.
Tiếp theo là sự nhân đôi (một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa) cũng
là những phép toán nhấn mạnh sự thiệt thòi, vất vả và công lao không
thể nói hết bằng lời của bà Tú. Ngôn ngữ lời nói, thành ngữ dân gian
được vận dụng linh hoạt, tự nhiên khiến cho những tính toán đó không
hề gây ấn tượng là những con số thuần túy.
Ở sáu câu thơ đầu, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh người vợ trong vất
vả gian lao vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp và đức hy sinh,
nhẫn nại thầm lặng của người phụ nữ Việt Nam. Và thấp thoáng đằng
sau đó là hình ảnh của người chồng với sự cảm thông và trân trọng ân
tình của vợ. Nhưng phải đến hai câu thơ cuối, hình ảnh người chồng
mới thực sự hiện ra và vẫn là để nói hộ vợ mình. Nhà thơ đã tự trách
mình, tự dằn vặt mình đến nghiệt ngã:


Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.

Câu thơ buột ra tự nhiên như một tiếng chửi nhưng lại ngậm ngùi như
một lời than, vẫn có sắc thái vui đùa chứa đựng ý tình sâu sắc, cảm
động. Tú Xương mượn lời vợ tự trách mình và qua đó một lần nữa bộc
lộ sự cảm thông với hoàn cảnh của bà. Đằng sau tiếng chửi ấy là bi kịch
của một con người chất chứa bao phẫn uất, đau xót và tê tái, là nỗi hổ
thẹn và tình thương yêu vô bờ Ông tự chửi thói sĩ diện kiểu thầy đồ
nghèo ăn bám vợ của mình, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự
đời, phó mặc tất cả cho người phụ nữ, thực chất trở thành gánh nặng
cho vợ cho con. Rõ ràng ở đây đã thể hiện sự thức nhận của một con
người biết vượt lên khỏi cái hạn chế của tầng lớp và thời đại mình để
cảm thông với những kiếp người quanh mình. Vì vậy lời chửi ấy không
chỉ để dành trách mình mà còn để chửi đời, chửi cả cái xã hội lố lăng,
giả dối đã sản sinh ra cái thứ chồng hờ hững Chính cái xã hội thực dân
nửa phong kiến ấy đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những kẻ hợm hĩnh sống
trên lưng người khác, xã hội ấy đã đẩy một Trần Tế Xương tài hoa xuất
chúng vào bước đường cùng, khiến người vợ vốn “ung dung, tính hạnh
khoan hòa”, “con gái nhà dòng” của ông phải cực khổ, vất vả. Ý nghĩa tố
cáo xã hội trở nên nổi bật ở câu kết bài thơ và man mác trong toàn bài,
nóng hổi hơi thở thời đại. Lời chửi cuối bài thơ như càng khẳng định
thêm tình cảm của ông Tú đối với bà Tú. Người chồng ấy tuy ăn bám vợ
con nhưng thực chất không hề “ăn ở bạc”, không hề “hờ hững”, mà
ngược lại dù bất lực trước hoàn cảnh nhưng vẫn luôn dõi theo, cảm
thông, sẻ chia, biết ơn. Thương vợ mà cũng chính là thương hại cho
chính bản thân mình. Bài thơ kết thúc thật độc đáo và bất ngờ, vừa
thấm đẫm cái bi, cái bất hạnh, lại cay đắng cái hài hước, cái cười nuốt
nước mắt vào trong. Bao nhiêu là cung bậc tình cảm của cuộc đời hiển

hiện trong những câu thơ giản dị, khiêm nhường, tự nhiên ấy.
Dù vất vả nắng mưa nhưng bà Tú ấy vẫn luôn cảm thấy hạnh phúc vì
được sống giữa tình thương yêu, trìu mến, vì có một người chồng đầy
nhân cách, hiểu mình, cảm thông nỗi vất vả của mình như ông Tú. Bà đã
được cả nước biết đến qua bài thơ của ông, trở thành biểu tượng cho
sự chắt chiu, chịu khó, hết lòng vì chồng con của người phụ nữ Việt
Nam. Hình ảnh bà Tú vất vả, tảo tần với đôi quang gánh trĩu nặng trên
vai, chiếc nón cũ đội đầu, chiếc áo nâu chùng tứ thân bốn mùa không
đổi, thoăn thoắt gấp gáp bước đi giữa không gian và thời gian vô định
chính là hình ảnh của đất nước trong những tháng năm đói nghèo nô lệ.

×