Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Chuyên đề văn học “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử & “Tràng giang” _1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.02 KB, 9 trang )

Chuyên đề văn học
“Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử & “Tràng giang”
của Huy Cận & “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của
Hoàng Phủ Ngọc Tường
ĐỀ RA
* Câu 1.
Phân tích bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

* Câu 2.
Vẻ đẹp của con sông Hương mà em cảm nhận được qua bài tuỳ bút "Ai
đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Câu 3.
Phân tích khổ thơ sau trong bài "Tràng giang" của Huy Cận:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".



HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Bài làm (Câu 1)
"Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,
Khép phòng đốt nến, nến rơi châu "
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? "Trăng nằm sóng soãi trên
cành liễu - Đợi gió đông về để lả lơi " ("Bẽn lẽn") - Thi sĩ còn nói đến
thuyền trăng, sông trăng, bến trăng Cả một trời trăng ảo mộng, huyền
diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn "say trăng"
với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong
những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 - 1941). Với
28 tuổi đời (1922 - 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm
bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt,
có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân
và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ")
như Hàn Mặc Tử.
"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong tập "Thơ điên" xuất bản năm 1940, sau khi
nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu
tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng
yêu - tình yêu thơ mộng đắm say, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài
thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của
thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa
nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng
thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có
mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang
hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với
cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:
"Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?".
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm
nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới
lên" rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa
cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời
nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên
khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt
quá, xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ
màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá"
một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con
người cần cù chăm bón mới có "màu xanh ngọc" ấy. Thiên nhiên rạo
rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về mùa xanh ngọc bích, trước
đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá "
("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man
mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ
điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn mới đẹp. Mặt chữ điền, gương
mặt đầy đặn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô
đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng
yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như
tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:
"Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý nhị và thơ ngây".
(Mùa xuân chín)
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng mới, tả vườn xuân, tả trúc và
thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là
hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc mặt chữ điền). Cảnh và
người nơi thôn Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố
đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh
tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn

hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đấy thường dìu dặt câu Nam ai,
Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt.
Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp
nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ
thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây,
dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, hài hòa và sống
động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời,
cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân
trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. "Hoa bắp lay" nhè
nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của
miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến
láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".
Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ
tới con đò mộng nằm trên bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành
sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp
nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn
Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử
cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền
em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo "Đây
thôn Vĩ Dạ" là những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ làm ta rung
động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu
kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà
thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ

sông Hương - Da thơm là phấn, má hường là son" Vĩ Dạ mưa nhiều,
những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. "Sương khói" trong
Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sương khói làm
nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi không ra hình dáng em
(nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và
duyên dáng. Gần mà xa, thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng.
Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng ôm ấp mối tình với một thiếu nữ Huế mang
tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
"Mơ khách đường xa, khách đường xa ai biết ai có", các điệp ngữ
luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người
đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng
say đắm với bao mối tình tình nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn
bệnh tật.
Cũng cần nói đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai"
xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" -
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" - "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con
người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng
khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối
tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết
như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói?
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người,
mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ bao
hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn
bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như
ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và màu trắng của áo em
như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa

vắng:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?".

Bài làm (Câu 2)
"Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một bài
tuỳ bút mang tầm cỡ một tác phẩm văn chương. Trong áng văn này, với
tình yêu quê hương sông núi, tác giả đã nói về dòng chảy và vẻ đẹp của
con sông Hương đoạn ở thượng nguồn, đoạn từ ngã ba Tuần đến chân
đồi Thiên Mụ, đoạn từ ngoại ô Kim Long đến Cồn Hến, và đoạn sông
Hương rời khỏi kinh thành ra đi…
a. Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn
Mang tính lưỡng thể, sông Hương vừa hùng vĩ “một bản trường ca của
rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh
thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực thẳm”, vừa mang vẻ
đẹp “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa
đỗ quyên rừng”. Tính lưỡng thể của dòng sông Hương ở thượng nguồn
vừa “phóng khoáng và man dại” như một nửa cuộc đời cô gái Di-gan,
biểu lộ “sức mạnh bản năng ở người con gái”, vừa mang sắc đẹp dịu
dàng và trí tuệ trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Dòng chảy của sông Hương ở thượng nguồn là “cuộc hành trình gian
truân” không kém phần kì lạ và bí mật, vì nó “đã đóng kín lại ở cửa
rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim
Phượng”.
Nguyễn Tuân đã từng tả tiếng thác sông Đà “như oán trách… như van
xin… như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, có lúc như tiếng rống
của một ngàn con trâu mộng “đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa”… Đó là những ấn tượng vô cùng sâu sắc mà bác Nguyễn đã
gieo vào lòng ta khi đọc bài kí “Người lái đò Sông Đà”. Hoàng Phủ
Ngọc Tường cũng thật tài hoa khi ông đã sáng tạo nên những liên tưởng,

những so sánh, ẩn dụ và nhân hóa miêu tả vẻ đẹp lưỡng thể đầy tính
nhân văn của dòng sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn. Tác giả đã
nhắc khẽ mọi người “nếu chỉ mãi nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của
nó… sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc
hành trình gian truân mà nó đã vượt qua…”. Suy tưởng ấy đã làm cho
những liên tưởng mà tác giả nêu lên thêm phần rung động thấm thía.
b. Sông Hương từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ
Vượt qua cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như người con
gái đẹp đang “ngủ mơ màng” được đánh thức bởi “người tình mong
đợi”. Sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục” khi vừa ra khỏi
rừng. Nó như nôn nóng đi tới gặp người tình - thành phố tương lai của
nó. Nó đã “vòng những khúc quanh đột ngột”.

×