Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

BỆNH CẢM CÚM (FLU) - Phần III pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.45 KB, 10 trang )

BỆNH CẢM CÚM
(FLU) - Phần III
CHẨN ĐOÁN
Phân tích sự khác biệt giữa cảm lạnh và cảm cúm có thể rất khó khăn. Các triệu
chứng cảm lạnh gần như luôn ít nghiêm trọng hơn các triệu chứng của cảm cúm.



Table 1: Comparing Colds and Flus

Việc chẩn đoán cúm
Một số xét nghiệm hiện có có thể giúp cách ly và xác định các loại virút chịu trách
nhiệm về những chứng cảm nhiễm đường hô hấp. Các xét nghiệm này thường
không cần thiết, vì đa số các trường hợp cúm đã tự cho thấy điều đó. Tuy nhiên,
các xét nghiệm như vậy có thể rất hữu ích trong việc khẳng định hoặc loại trừ khả
năng bị cúm. Nếu một bác sĩ tin rằng việc chẩn đoán là có ích, thì các mẫu xét
nghiệm sử dụng một tăm bông sẽ được lấy từ xoang mũi hoặc cổ họng trong vòng
4 ngày kể từ khi các triệu chứng đầu tiên xuất hiện.



A sterile swab is passed gently through the nostril and into the nasopharynx: Một
tăm bông tiệt trùng được đưa nhẹ qua lỗ mũi vào trong mũi hầu.

Lấy mẫu vi khuẩn ở mũi họng (nasopharyngeal culture) là một xét nghiệm dùng để
xác định các sinh vật gây bệnh trong dịch bài tiết của mũi. Lấy mẫu vi khuẩn ở
mũi họng thì có ích trong việc xác định vi khuẩn gây bệnh ho gà Bordetella và
bệnh viêm màng não Neisseria (các loại vi khuẩn). Việc lấy mẫu vi khuẩn này có
thể giúp xác định phương pháp trị liệu bằng kháng sinh một cách thích hợp.

Ghi chú:


Lấy mẫu vi khuẩn ở mũi họng: Bệnh nhân nên ho trước khi thực hiện lấy mẫu xét
nghiệm. Sau đó, khi bệnh nhân ngửa đầu về phía sau, bác sĩ (hoặc y tá) sẽ kiểm
tra phía sau của cổ họng bằng cách sử dụng một đèn pin nhỏ và dụng cụ đè lưỡi
xuống. Một miếng gạc được gắn vào một sợi dây (kim loại) có thể uốn cong được
đưa vào lỗ mũi, khoang mũi và phần trên của cổ họng. Miếng gạc được xoay vòng
nhanh và sau đó kéo trở ra. Tiếp theo, miếng gạc được đặt vào một ống vô trùng
có dung dịch cấy mẫu vật để chuyển đến phòng thí nghiệm vi sinh. Để tránh bị
nhiễm bẩn, miếng gạc này không nên chạm vào lưỡi của bệnh nhân hoặc các bên
thành của lỗ mũi.
Khi mẫu xét nghiệm đến phòng thí nghiệm, miếng gạc sẽ được thoa lên đĩa thạch
xét nghiệm và đĩa thạch này sẽ được ủ trong khoảng 24 đền 48 giờ, để cho phép
các sinh vật hiện diện trong đĩa thạch phát triển. Những sinh vật này sẽ được xác
định và bất kỳ các sinh vật gây bệnh nào cũng có thể được thử nghiệm để xem xét
tính nhạy cảm với các loại thuốc kháng sinh cụ thể. Điều này cho phép các bác sĩ
điều trị xác định các loại thuốc kháng sinh nào sẽ có hiệu lực.
Một số xét nghiệm nhanh về cúm có thể cho thấy kết quả trong vòng chưa đầy 30
phút, nhưng thời gian khác nhau tùy theo chủng virút cụ thể hay các chủng virút
mà họ có thể phát hiện ra. Tuy nhiên, các xét nghiệm này không chính xác bằng
việc xét nghiệm lấy mẫu vi khuẩn, trong đó virút được sản sinh trong phòng thí
nghiệm để theo dõi. Kết quả xét nghiệm lấy mẫu vi khuẩn có thể mất từ 3 đến 10
ngày. Các xét nghiệm máu cũng có thể cho thấy sự nhiễm trùng trong vài tuần sau
khi các triệu chứng xuất hiện.

Chẩn đoán cúm gia cầm
Vào tháng 2 năm 2006, Cục Quản Lý Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA)
đã phê chuẩn một xét nghiệm mới nhanh hơn để chẩn đoán các chủng H5 của cúm
gia cầm ở những người bị nghi ngờ bị nhiễm virút này. Xét nghiệm này được gọi
làInfluenza A/H5 (Asian lineage) Virus Real-time RT-PCR Primer and Probe Set.
Xét nghiệm này cho biết kết quả sơ bộ trong vòng 4 giờ. Các xét nghiệm trước đây
đòi hỏi phải mất từ 2 đến 3 ngày. Xét nghiệm này kiểm tra sự hiện diện của các

chủng cúm A H5. Nếu sự hiện diện của chủng này đã được xác nhận trong lần xét
nghiệm nhanh, thì việc kiểm tra thêm nữa sẽ cần thiết để xác định chính xác chủng
loại phụ của virút này. Ví dụ, chủng virút đang gây lo lắng hiện nay là H5, chủng
loại phụ N1, gọi tắt là H5N1.

Các nguyên nhân khác gây ra chứng nghẹt mũi (sung huyết mũi)
Loại trừ khả năng bị Viêm Mũi Dị Ứng. Các triệu chứng của chứng viêm mũi dị
ứng bao gồm sự tắc nghẽn và nghẹt mũi, các triệu chứng này tương tự như các
triệu chứng của cảm lạnh. Tuy nhiên, những người bị dị ứng có khả năng mắc phải
những triệu chứng sau đây:
• Nước mũi lỏng, trong suốt.
• Ngứa ở mũi, mắt, hoặc cổ họng
• Hắt hơi hồi quy
Có 2 dạng viêm mũi dị ứng:
• Các triệu chứng chỉ xuất hiện trong mùa dị ứng thì được gọi là viêm mũi dị ứng,
thường biết đến như dị ứng phấn hoa hay dị ứng hoa hồng (fever or rose fever).
• Các yếu tố gây dị ứng trong nhà, như ve bụi, nấm mốc, và lông thú nuôi, có thể
gây ra viêm mũi dị ứng kéo dài cả năm, được gọi là viêm mũi quanh năm
(perennial rhinitis).



Có nhiều loại hợp chất cùng loại mà gây ra dị ứng cũng có thể gây ra bệnh suyễn.
Các chất gây dị ứng phổ biến bao gồm phấn hoa, ve bụi, nấm mốc, và lông thú
nuôi. Những yếu tố gây ra bệnh suyễn bao gồm những chất gây khó chịu như khói,
ô nhiễm môi trường, khói độc hại có mùi, các hóa chất để tẩy rửa, và thuốc xịt.
Việc tránh tiếp xúc với những chất gây dị ứng được biết đến và những chất gây
kích thích đường hô hấp có thể làm giảm đáng kể các triệu chứng của bệnh suyễn.
Loại trừ khả năng bị Viêm Xoang. Các dấu hiệu và triệu chứng cho thấy viêm
xoang cấp tính thật sự bao gồm:

• Sự quay trở lại của chứng nghẹt mũi và khó chịu sau khi có sự cải thiện ban đầu
của chứng cảm lạnh (được gọi là bệnh gấp đôi)
• Chảy mủ (mủ đầy) trong nước mũi
• Thiếu sự phản ứng với thuốc chống nghẹt mũi hoặc thuốc kháng histamine
• Đau ở hàm răng trên hoặc đau 1 bên đầu
• Đau ở trên hoặc dưới cả hai mắt khi cúi xuống
Trẻ em bị viêm xoang ít có khả năng bị đau ở mặt và nhức đầu hơn và chỉ có thể bị
sốt cao hoặc có các triệu chứng về đường hô hấp trên kéo dài (chẳng hạn như ho
vào ban ngày mà không cải thện trong khoảng từ 11 đến 14 ngày). Khi việc chẩn
đoán không rõ ràng hoặc các biến chứng bị nghi ngờ, thì cần có thêm các xét
nghiệm khác nữa.

Các nguyên nhân khác gây ra ho
Viêm Phế Quản Cấp Tính. Viêm phế quản cấp tính thường do một loại virút gây ra
và trong đa số các trường hợp là nó tự điều khiển sự phát triển. Ho thường kéo dài
từ 7 đến 10 ngày, nhưng trong khoảng một nửa số bệnh nhân, cơn ho có thể kéo
dài đến 3 tuần, và 25% số bệnh nhân tiếp tục ho trong hơn 1 tháng.
Viêm Phổi Không Điển Hình (thường thấy ở trẻ em và thanh thiếu niên). Viêm
phổi gây ra bởi các sinh vật không điển hình (ví dụ như Mycoplasma pneumonia,
chlamydia, Legionella) có thể gây ra các triệu chứng tương tự như cúm. Chỉ có các
xét nghiệm trong phòng thí nghiệm mới có thể chẩn đoán được sự khác biệt.
Loại trừ khả năng bị các Tình Trạng Nhiễm Virut khác. Virút hợp bào đường hô
hấp(Respiratory syncytial virus - RSV) và có thể virút gây ra cúm ở người, đặc
biệt ở trẻ em (HPV), được chứng minh là nguyên nhân quan trọng gây ra nhiễm
trùng đường hô hấp nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh, người cao tuổi, và những người có
hệ thống miễn dịch bị tổn thương. (Cả hai loại trên cũng gây ra các chứng bệnh
nhẹ). RSV có thể là một nguyên nhân rất thường gây ra các triệu chứng giống cúm
hơn là chúng ta thường nghĩ trước đây.
Ho Gà. Ho gà (Pertussis) là một chứng bệnh phổ biến trong thời niên thiếu trong
suốt nửa đầu thế kỷ này. Mặc dù các việc chủng ngừa đã làm suy giảm xuống còn

1, 700 trường hợp bệnh ở Mỹ vào năm 1980, gần đây tỷ lệ mắc bệnh đã gia tăng,
với 8739 trường hợp bệnh vào năm 2007. Còn nhiều trường hợp hơn nữa được báo
cáo trên toàn thế giới.
Hiện nay, gần một nửa số trường hợp bệnh ho gà xảy ra ở những người ở độ tuổi
từ 10 trở lên, có lẽ do khả năng miễn dịch xuống cấp ở trẻ vị thành niên và người
lớn. Các trường hợp như vậy có thể được báo cáo với con số thấp hơn so với con
số thật sự. Trong số những người trưởng thành bị ho dai dẳng mà đến gặp bác sĩ
thì có đến 25% có thể bị ho gà thực sự. Tuy nhiên, điều đó có thể không được chẩn
đoán ra, bởi vì các triệu chứng của họ thường nhẹ và người trưởng thành ít có khả
năng bị “ho gà” truyền thống. Điều này gây một số lo ngại vì những người như thế
có thể vô tình lây nhiễm sang những trẻ em chưa được tiêm chủng. Các bệnh nhân
càng trẻ tuổi, càng có nhiều khả năng bị các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm
viêm phổi, động kinh, và thậm chí tử vong. Trẻ em dưới 6 tháng tuổi đặc biệt có
nhiều nguy cơ nhiễm bệnh vì sự bảo vệ chưa đầy đủ, thậm chí đã được tiêm
chủng.
Vào tháng 4 năm 2005, FDA đã phê chuẩn vắc xin ho gà liều tăng cường đầu tiên
(“Boostrix”) cho trẻ em độ tuổi từ 10 đến 18. Vào tháng 12 năm 2008, FDA cũng
đã chấp thuận loại vắc xin này sử dụng cho những người lớn từ 64 tuổi trở xuống.

Các nguyên nhân khác gây đau cổ họng
Bên cạnh virút gây bệnh cảm lạnh thông thường, còn có những loại khác gây ra
đau cổ họng ít phổ biến hơn bao gồm:
• Viêm họng do khuẩn cầu chuỗi
• Nhiễm trùng do lây lan qua nước uống và thực phẩm (khuẩn cầu chuỗi C và G)
• Một sinh vật ít phổ biến được gọi là Arcanobacterium haemolyticum (nhiễm vi
khuẩn này có thể giống như chứng viêm họng do khuẩn cầu chuỗi và thậm chí có
thể gây ra ban ngứa)
• Nhiễm bạch cầu đơn (bệnh đơn nhân nhiễm trùng)
• Virút gây bệnh herpes 1

×