Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tiểu luận về chiến tranh " NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA CHẾ ĐỘ QUÂN SỰ PHỔ " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.19 KB, 7 trang )

Tiểu luận về chiến tranh
NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA CHẾ ĐỘ
QUÂN SỰ PHỔ
Đã đăng trên tờ "The Pall Mall Gazette" số 1764, ngày 8 tháng
Mười 1870
Vài tuần trước đây, chúng tôi đã chi rõ rằng chế độ tuyển quân của Phổ
hoàn toàn không hoàn hảo
[1*]
Như người ta tuyên bố, chế độ đó biến
mỗi người dân thành một người lính. Theo lối nói chính thức của Phổ,
quân đội chẳng phải là cái gì khác, mà chỉ là "một trường học để toàn
dân học tập tiến hành chiến tranh"; trong khi đó chỉ có một tỷ lệ nhỏ
dân cư được trải qua trường học đó. Giờ đây, chúng tôi lại bàn về vấn
đề đó để minh họa bằng một vài con số chính xác.
Theo những số liệu của cục thống kê Phổ
[72]
thì năm 1831 đến hết năm
1854 số người nhập ngũ thực tế hàng năm trung bình là 9,84% số thanh
niên ở độ tuổi nhập ngũ; số người đủ điều kiện phục vụ trong quân ngũ
chưa bị gọi vào lính mỗi năm là 8,28%, số người hoàn toàn không đủ
điều kiện để phục vụ trong quân ngũ do những khuyết tật về thể chất là
6,40%; số người tạm thời không đủ điều kiện phục vụ trong quân ngũ,
năm sau phải khám tuyển lại là 53,28%, số người còn lại thì hoặc
không đến đăng ký hoặc thuộc những loại người mà số lượng ít đến
mức không cần nói đến ở đây. Như vậy, suốt 24 năm ấy chỉ có chưa
Tiểu luận về chiến tranh
đến một phần mười số công dân thanh niên kinh qua trường quân sự
quốc dân; ấy thế mà cái đó được gọi là "nhân dân vũ trang"
[73]
.
Về năm 1861, có những cơn số sau đây: số thanh niên 20 tuổi thuộc đợt


nhập ngũ năm 1861 là 217.438 người; số thanh niên thuộc các đợt nhập
ngũ trước đây được phép chuyển hạn cho đến khi có lệnh đặc biệt là
348.364 người- tồng cộng là 565.802 người. Trong số đó có 148.946
người tức 26,32% không đến đăng ký; 17.727 người tức 3,05% hoàn
toàn không đủ điều kiện để phục vụ trong quân ngũ; 76.590 người tức
13,50% được xếp vào quân dự bị bổ sung
[74]
tức là được miễn phục vụ
tại ngũ trong thời bình nhưng bị gọi nhập ngũ trong thời chiến; 230.236
người tức 40,79% được hoãn cho đến lần khám tuyển lại sau do tạm
thời không đủ điều kiện phục vụ trong quân ngũ; 22.369 người tức
3,98% được miễn vì những nguyên nhân khác, chỉ còn lại 69.934 người
tức 12,36% để gọi nhập ngũ; thế nhưng trong số đó chi có 59.459
người tức 10,50% thật sự bị gọi nhập ngũ.
Không nghi ngờ gì hết từ năm 1866, tỷ lệ người bị gọi nhập ngũ hàng
năm có tăng lên nhưng không thể tăng với mức độ đôi chút đáng kể,
hiện nay nhiều lắm cũng chi có 12% hoặc 13% dân nam giới của miền
Bắc nước Đức phục vụ trong quân ngũ. Điều đó đương nhiên trái
ngược hẳn với những tin tức hân hoan của những "phóng viên đặc biệt"
trong thời gian động viên ở Đức. Theo lời họ, mỗi người đàn ông mạnh
khỏe có thể phục vụ được trong quân ngũ đều mặc áo lính, khoác súng
trên vai hoặc cưỡi ngựa chiến; mọi sinh hoạt làm ăn đều đình đốn; nhà
máy nghỉ việc, cửa hiệu đóng cửa, lúa chín bỏ ngoài đồng không người
Tiểu luận về chiến tranh
thu hoạch, toàn bộ sản xuất đình đốn và toàn bộ thương mại ngừng hoạt
động- tình trạng "tạm thời không có những dấu hiệu của sự sống" đã
thực sự xuất hiện. Nếu như tình trạng dốc hết sức lực một cách không
thể tưởng tượng được như thế của một dân tộc kéo dài dù chỉ vài ba
tháng thôi, thì chắc chắn nó sẽ không tránh khỏi dẫn đến sự kiệt quệ
hoàn toàn của dân tộc đó. Dân thường tất nhiên bị biến thành lính trên

những quy mô mà những người sống ở ngoài nước Đức không thể hình
dung được; nhưng nếu như giờ đây sau khi hơn một triệu người bị bứt
khỏi đời sống dân sự, cũng chính những người cầm bút ấy nhìn vào
nước Đức thì họ sẽ thấy rằng các nhà máy vẫn làm việc, mùa màng đã
được thu hoạch, các cửa hàng và văn phòng vẫn mở cửa. Nếu sản xuất
bị đình đốn thì đó là vì thiếu đơn đặt hàng chứ không phải vì thiếu nhân
công, ngoài phố người ta có thể thấy có rất nhiều chàng trai khỏe mạnh,
họ có thể cầm súng giống như những chàng trai đã sang Pháp.
Những con số nêu trên lý giải tất cả điều đó. Số người đã làm xong
nghĩa vụ trong quân ngũ tất nhiên không vượt quá 12% tổng số nam
giới thành niên. Vì thế, khi động viên người ta không thể gọi nhập ngũ
quá 12% nam giới thành niên, còn 88% vẫn ở nhà; tất nhiên trong quá
trình chiến tranh một phần những người này đã bị gọi nhập ngũ để bù
đắp những thiệt hại do chiến đấu và bệnh tật gây ra. Như vậy trong nửa
năm có thêm 2%-3% nữa bị gọi nhập ngũ; tuy nhiên đại đa số nam giới
không bao giờ bị gọi nhập ngũ. "Toàn dân vũ trang" là một điều giả dối
trăm phần trăm.
Tiểu luận về chiến tranh
Trước đây chúng tôi đã chỉ ra nguyên nhân đẻ ra tình trạng đó. Chừng
nào vương triều Phổ và Chính phủ Phổ còn tiếp tục chính sách truyền
thống của nó, thì nó còn cần có quân đội là công cụ ngoan ngoãn thực
hiện chính sách đó. Theo kinh nghiệm của Phổ, muốn huấn luyện người
dân thường làm được nhiệm vụ phục vụ đó thì điều cần thiết là người
dân thường đó phải ở trong quân ngũ 3 năm. Ngay cả những học giả
quân sự cố chấp lì lờm nhất ở Phổ cũng chưa bao giờ khẳng định một
cách nghiêm chỉnh rằng bộ binh- những người cấu thành bộ phận hợp
thành chủ yếu của quân đội - không thể nắm vững thành thạo được tất
các chức trách quân sự của họ trong 2 năm, nhưng như các cuộc tranh
luận trong nghị viện trong những năm 1861- 1866 cho thấy rõ, chỉ đến
năm thứ ba người lính mới có được tinh thần quân nhân chân chính và

thời gian phục tùng tuyệt đối. Song với ngân sách quân sự đã ấn định,
người lính phục vụ tại ngũ càng lâu càng ít tân binh được tuyển vào
lính. Hiện nay, với thời hạn phục vụ tại ngũ 3 năm, mỗi năm có 90.000
tân binh nhập ngũ; với thời hạn phục vụ tại ngũ 2 năm mỗi năm có thể
gọi nhập ngũ và huấn luyện 135.000 tân binh và với thời hạn phục vụ
tại ngũ 18 tháng mỗi năm có thể gọi nhập ngũ và huấn luyện 180.000
tân binh. Qua những con số chúng tôi vừa dẫn, ta thấy rõ rằng hoàn
toàn có đủ số lượng người khỏe mạnh về thể chất đủ điều kiện phục vụ
trong quân ngũ để làm việc đó, và qua sự thật dưới đây, điều đó càng rõ
hơn. Như vậy chúng ta thấy rằng những lời hoa mỹ về "toàn dân vũ
trang" chỉ là tấm màn ngụy trang che đậy cho việc xây dựng một quân
đội lớn để thi hành chính sách đối ngoại quả đầu và chính sách đối nội
Tiểu luận về chiến tranh
phản động. "Toàn dân vũ trang" hoàn toàn không phải là công cụ thích
hợp để thực hiện các mục tiêu của Bi-xmác.
Dân số Liên đoàn Bắc Đức đạt tới gần 30.000.000 người. Số quân của
nó thời chiến tính tròn là 950.000 người tức là chi bằng 3,17% dân số.
Số thanh niên bước vào tuổi 20 mỗi năm bằng gần 1,23% dân số hoặc
360.000 người. Nếu xét đoán theo kinh nghiệm của các tiểu bang ở
Đức, thì trong số đó già một nửa có thể được sử dụng- ngay lập tức
hoặc trong thời gian hai năm sắp tới- để phục vụ trong quân chiến đấu;
con số đó là 180.000 người. Một bộ phận lớn số người còn lại đủ điều
kiện để phục vụ trong quân cảnh vệ; nhưng chúng ta tạm thời có thể
không tính đến họ. Cơ quan thống kê Phổ hình như không đồng ý với
những con số đó, song vì những lý do rõ ràng các số liệu thống kê Phổ
phải được xếp loại sao cho kết quả nhìn bề ngoài có vẻ phù hợp với ảo
tưởng "toàn dân vũ trang". Nhưng ngay cả ở đây nữa, sự thật cũng lộ
rõ. Năm 1861, ngoài 69.934 người đủ điều kiện phục vụ trong quân
đội, có 760.590 người được xếp vào quân hậu bị bổ sung, tức tổng cộng
là 146.524 người đủ điều kiện phục vụ trong quân ngũ, trong số đó chỉ

có 59.459 người tức 40% được lấy vào quân đội. Dù sao chúng ta cũng
có thể thừa nhận một cách hoàn toàn chắc chắn rằng một nửa số thanh
niên đủ điều kiện phục vụ trong quân đội. Nếu thế, mỗi năm có thể có
180.000 tân binh nhập ngũ quân chính quy, sau đó họ vẫn là quân hậu
bị trong 12 năm như hiện nay. Như vậy sẽ có 2.160.000 binh sĩ được
huấn luyện- con em này nhiều gấp hơn hai lần số quân hiện nay, ngay
dù có tính hết tất cả số giảm đi do chết và do các nguyên nhân khác.
Tiểu luận về chiến tranh
Nếu một nửa số thanh niên còn lại được khám tuyển lại khi họ 25 tuổi
thì trong đó còn có thể lấy được thêm 500.000- 600.000 quân cảnh vệ
tốt, nếu không phải là nhiều hơn thế. Từ 6% đến 8% dân số được huấn
luyện và được đưa vào kỷ luật trước, được gọi nhập ngũ khi đất nước bị
tấn công, có đội ngũ cán bộ khung cho tất cả họ, đội ngũ này được đuy
trì ngay cả trong thời bình như vẫn làm hiện nay- đó mới thật sự là
"toàn dân vũ trang"; nhưng đó sẽ không phải là một quân đội để tiến
hành chiến tranh vì lợi ích của bọn quả đầu cầm quyền, để thực hiện
những cuộc xâm lăng hay để thi hành chính sách phản động ở trong
nước.
Dù sao đấy cũng mới chỉ là sự thực hiện một cách giản đơn những lời
nói suông của Phổ thành hiện thực. Nếu chỉ riêng một cái na ná như
toàn dân vũ trang đã có một sức mạnh như thế, thì thử hỏi toàn dân vũ
trang thật sự sẽ có sức mạnh như thế nào? Và chúng ta có thể tin rằng
nước Pháp sẽ biến cái na ná đó thành hiện thực dưới hình thức này hay
hình thức khác nếu Phổ cứ khăng khăng đòi xâm chiếm lãnh thổ, buộc
Pháp phải làm việc đó Pháp sẽ được tổ chức thành một quốc gia cả
nước đều là lính và sau vài năm có thể làm cho Phổ phải ngạc nhiên về
quân số áp đảo của mình, như Phổ đã làm cho toàn thế giới phải ngạc
nhiên mùa hè năm nay. Nhưng phải chăng Phổ không thể làm việc đó?
Tất nhiên là có thể, nhưng nếu thế thì nó sẽ không còn là nước Phổ hiện
nay nữa. Nó sẽ được thêm sức mạnh phòng thủ, nhưng đồng thời sẽ

mất đi sức mạnh tấn công; nó sẽ có nhiều binh lính hơn, nhưng những
người lính ấy khi chiến tranh bắt đầu sẽ không sẵn sàng xâm lăng như
Tiểu luận về chiến tranh
hiện nay; Phổ sẽ phải từ bỏ mọi ý tưởng xâm lăng còn chính sách đối
nội hiện nay của nó thì cũng sẽ bị đe dọa rất nặng nề.


Chú thích
[1*]. xem tập này. Tr. 140 - 142

×