Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

GIÁO TRÌNH QUẢN LÝ ĐẤT LÂM NGHIỆP part 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.41 KB, 10 trang )


9
 Việc bảo vệ các diện tích rừng hiện có thông qua trồng rừng, sản xuất nông lâm kết hợp
và các chương trình trồng các cây khác là nhiệm vụ chính của quốc gia để tiếp tục phát triển kinh
tế và bảo vệ môi trường.
Chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp năm 2001 (FSSP) đã xây dựng một khung logic để
hỗ trợ phát triển lâm nghiệp trong những năm đến, có 9 kết quả chính đã được dự kiến; trong đó
có kết quả mong đợi thứ hai liên quan đến phát triển cơ chế chính sách liên quan đến lâm nghiệp
là “Có khuôn khổ chính sách, pháp luật và thể chế để làm hài hoà các chính sách của quốc gia-
tỉnh về đất rừng và sử dụng tài nguyên”. Một số chỉ thị quan trọng trong phát triển chính sách đã
được cam kết như là:
Khái niệm “lâm nghiệp nhân dân” được làm rõ và đưa vào tất cả các văn bản chính sách
liên quan.
Chính sách lâm nghiệp cộng đồng được ban hành năm 2003.
Đến năm 2004 các chính sách hưởng lợi được cải cách.
Nhìn chung trong giai đoạn này, nhà nước đã đầu tư nguồn lực để bàn hành và sửa đổi
nhiều chính sách liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng như Luật đất đai, Luật
quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Quy chế (08) quản lý 3 loại rừng. Nghị định 178 về chế độ
hưởng lợi của người dân khi tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Nghị định 163 về giao khoán đất
lâm nghiệp cho hộ gia đình và các tổ chức. Mặt khác trong quá trình tiếp cận, nhiều hoạt động đã
chú trọng đến sự tham gia của cộng đồng trong quản lý nguồn tài nguyên hoặc quản lý nguồn tài
nguyên dựa vào cộng đồng như QHSD đất và giao đất Lâm nghiệp dựa có sự tham gia, quản lý
rừng dựa vào cộng đồng.
Những nghị quyết, quyết định và chỉ thị trên đây đã đánh dấu sự thay đổi cơ bản trong chủ
trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta, công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của
kinh tế hộ gia đình, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo bình đẳng quyền và nghĩa
vụ trước pháp luật, bảo hộ quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp pháp của các hộ gia đình, cá
nhân trên diện tích đất lâm nghiệp được giao. Đây chính là động lực trực tiếp kích thích người
dân yên tâm nhận đất nhận rừng để sản xuất kinh doanh, kinh tế hộ gia đình có điều kiện phát
triển hơn. Mỗi người dân nói chung, đặc biệt là nông dân miền núi, rất phấn khởi thực hiện chính
sách này. Chủ trương giao đất lâm nghiệp của Đảng Nhà nước đến nay đã đi vào cuộc sống của


người dân miền núi bao đời nay gắn bó với rừng.
Giao đất lâm nghiệp ở nước ta được hình thành như là một cấu thành quá trình đổi mới kinh
tế hiện nay. Muốn quản lý bảo vệ và phát triển rừng thì mỗi khu rừng phải có chủ rừng, và chủ
rừng phải có lợi ích thực sự từ rừng và nghề rừng.
Thực tế cho thấy: thông qua kết quả giao đất giao rừng cho ở nhiều địa phương trong cả
nước đã thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc tăng độ che phủ của
rừng, tạo các vùng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây nguyên liệu tập trung, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân trong vùng, điển hình làm tốt như các tỉnh:
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Thanh Hoá,
1.3. Phân tích về một số điểm trong các chính sách liên quan
Từ sau khi có Luật đất đai năm 1993, luật phát triển bảo vệ rừng và một số chính sách
mang tính pháp lý đã thực sự thu hút sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế. Nó đã đề cập và
đưa ra những qui định, quyết định cần thiết, hợp ý dân trong thời kỳ đổi mới.

10
Các chính sách của nhà nước ta đã chú trọng đến quyền lợi của người dân và sự tham gia
của người dân trong việc sử dụng đất ngày càng được tăng cường. Có thể hệ thống hoá việc mô tả
các tài liệu bằng sơ đồ theo dòng thời gian như sau:

Đất đai thuộc
Nhà nước quản lý độc
quyền


Đất đai do Nhà
nước và tổ chức cộng
đồng (HTX) quản lý/sử
dụng



Đất đai do tổ
chức (Nhà nước, cộng
đồng)/hộ gia đình/cá
nhân quản lý sử dụng
Trước năm
1968

Từ năm 1968-
1983

Từ năm 1983
đến nay
Sự tham gia (tăng)

Về phương pháp luận của các tài liệu: Sử dụng phương pháp thống kê và phân tích số liệu,
đồng thời dẫn ra các chính sách cụ thể để người đọc có cơ hội đi sâu nghiên cứu những vấn đề
liên quan đến từng loại chính sách.
Tuy nhiên một số tồn tại đã bộc lộ trong quá trình thực hiện chính sách như:
Chính sách giao đất cho người dân đã có, nhưng tại sao thực hiện lại không có hiệu quả và
còn nhiều vướng mắc. Giữa chính sách và thực hiện có gì là bất cập? Vì sao việc cấp giấy phép
về quyền sử dụng đất lại khó khăn đến vậy?
Việc Nhà nước “cho thuê đất” mà đối tượng được thuê là tổ chức/hộ gia đình/cá nhân trong
nước và ngoài nước đồng thời lại xác lập quyền cho thuê/chuyển đổi/chuyển nhượng quyền sử
dụng đất Liệu có kẽ hở trong chính sách hay không? Có cần thêm những qui định cụ thể cho
điều này?
Trong 2 Nghị định 01/CP (giao khoán đất lâm nghiệp của các lâm trường cho các hộ gia
đình), Nghị định 02/CP (giao đất Lâm nghiệp lâu dài cho các tổ chức và cá nhân) thì đã có tiêu
chí để đưa ra khái niệm đất nông nghiệp? và đất lâm nghiệp? Hơn nữa có thể cùng 1 nơi vừa là
đất nông nghiệp, vừa là đất lâm nghiệp (ví dụ vùng đất cát: trồng rừng, trồng cây nông nghiệp?
Đất để tiến hành sản xuất Nông Lâm kết hợp)

Hệ thống giải pháp nào? Chính sách hỗ trợ nào để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng đất
có sự tham gia.
Chủ trương giao đất lâm nghiệp khoán rừng đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực
hiện từ năm 1968, qua mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước lại có những điều chỉnh, bổ sung kịp
thời cho phù hợp với thực tế. Vì vậy, việc giao đất, khoán rừng trong từng giai đoạn cũng có sự
khác nhau về phạm vi, quy mô, mức độ và kết quả đạt được. Nhìn tổng quát kết quả về hoạt động
giao đất lâm nghiệp ở nước ta đã đạt được thành quả nhất định qua các giai đoạn sau:
Từ 1968-1992: Những chính sách xây dựng nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất ở miền núi
có nhiều mặt không phù hợp, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp lâm nghiệp làm rập khuôn như
đồng bằng là không phù hợp với tích chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi.
Khoán 10 đối với đồng bào miền núi được hiểu như là sự giải thể hợp tác xã nông nghiệp, các hộ
gia đình nhận lại ruộng đất, rừng của mình trước khi vào hợp tác xã tình trạng này dẫn đến tranh
chấp đất đai giữa các cộng đồng dân cư trong thôn bản, giữa dân địa phương với dân miền xuôi
lên xây dựng kinh tế mới tuy nhiên hiệu quả chính sách giao đất giao rừng trong thời kỳ này
chưa cao nhưng chính sách giao đất giao rừng đã khuyến khích tạo động lực phát triển nông lâm

11
nghiệp ở miền núi, bước đầu đã hình thành nên thị trường ở trung du, ở miền núi đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa chính sách giao đất lâm nghiệp còn nhiều hạn chế.
Qua thực tế cho thấy ở nhiều nơi sau khi tập thể, hộ gia đình, cá nhân nhận rừng mà tổ chức
kinh doanh đã có thu nhập từ rừng đáng kể, do xác định được cơ cấy cây trồng thích hợp với điều
kiện khí hậu đất đai ở nhiều địa phương: Quế Quảng Nam, Quảng Ninh
Qua 24 năm thực hiện giao đất giao rừng (1968-1992) đã giao được tổng số trên 11 triệu
ha trong đó 5,8 triệu ha giao cho quốc doanh; 1,3 triệu ha giao cho hộ gia đình; 3,7 triệu ha giao
cho hợp tác xã nông nghiệp trên thực tế mới sử dụng 30% diện tích giao số còn lại vẫn không
được khai thác bảo vệ vẫn còn hoang hoá, thực trạng này chứng tỏ chủ trương giao đất giao rừng
trong giai đoạn này chưa tạo điều kiện tích cực trong việc quản lý bảo vệ rừng và phát triển tài
nguyên rừng. Nguyên nhân của những hạn chế đó:
- Đời sống nhân dân còn quá nghèo lại thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước, nên sản xuất kinh
doanh lâm nghiệp gặp nhiều khó khăn, mặt khác nghề rừng đối với miền núi chủ yếu là hái lượm

và khai thác những sản phẩm sẵn có để giải quyết đời sống hàng ngày, cho nên khi giao đất giao
rừng họ lại tự do khai thác nhiều hơn làm cho rừng bị nghèo kiệt.
- Thị trường ở miền núi chưa phát triển, nên chưa kích thích được quá trình sản xuất kinh
doanh trên phần đất được giao.
- Tập quán canh tác còn lạc hậu, chưa chuyển giao được phương thức canh tác tiên tiến trên
đất dốc cho người dân miền núi, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để thực hiện điều đó vẫn còn
hạn chế.
- Việc thực hiện giao đất giao rừng đến các hộ dân cư được các ngành chức năng, chính
quyền địa phương thực hiện nghiêm túc, như còn giao để lấy thành tích, mà không tính đến khả
năng của người nhận đất, chưa có sự thống nhất về nội dung, kỹ thuật biện pháp giao rừng từ
trung ương đến địa phương trong phạm vi cả nước đã dẫn đến nhiều cách hiểu, cách vận dụng,
cách làm khác nhau. Vì vậy chưa tạo được yên tâm cho người dân đầu tư sản xuất trên rừng đất
rừng được nhà nước giao. Do vậy giao đất giao rừng trong thời kỳ này chỉ tồn tại trong một thời
gian nhất định, sau đó phải giao đi giao lại, hậu quả dẫn đến mất rừng.
Từ 1993- 2003: Đây là giai đoạn có những thay đổi cơ bản trong quản lý sử dụng rừng và
đất rừng ở Việt Nam, đó là sự ra đời của Luật đất đai, Nghị định 02/CP, nghị định 01/CP, Nghị
định 163/CP công tác giao đất lâm nghiệp đã được thực hiện theo những nguyên tắc và quy
định mới.
Theo số liệu tổng hợp của Cục kiểm lâm, đến cuối năm 1999 cả nước giao được 8.786.572
ha đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đạt 59% tổng diện tích quy hoạch cho sản
xuất lâm nghiệp, bao gồm:
Trong quy hoạch đất lâm nghiệp 3 loại rừng theo mục đích sử dụng:
+ Rừng đặc dụng 2.119.547 ha đã giao được 972.375 ha chiếm 46%.
+ Rừng phòng hộ với diện tích quy hoạch 6,8 triệu ha, đã giao được 3.196.343 ha chiếm
47%.
+ Rừng sản xuất 9,6 triệu ha, đã giao với diện tích 4.617.872 ha chiếm 48%.
Trong đó giao cho 27.312 tổ chức, với diện tích 6.179.913 ha, giao 452.168 hộ gia đình, cá
nhân với diện tích là 2.606.659 ha.
Cấp giấy quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho 1.368 tổ chức, 200.168 hộ gia đình, cá nhân
với tổng diện tích là 1.173 ha mới chiếm 13% tổng diện tích đã giao.


12
Nói chung kết quả giao đất lâm nghiệp trên đã cho rừng có chủ thực sự, tạo ra nhiều loại
hình sở hữu rừng (rừng Nhà nước, rừng tập thể, rừng cộng đồng và rừng hộ gia đình ) tạo điều
kiện khai thác tiềm năng đất đai, lao động, nguồn vốn tại chỗ. Cùng với các chính sách tích cực
khác của Nhà nước trong thời gian qua đã làm cho độ che phủ của rừng tăng lên nhanh chóng, từ
năm 1992 đến năm 1999 độ che phủ của rừng tăng từ 28% lên 33,31%. Đã hình thành hàng ngàn
trang trại nông lâm nghiệp, mô hình kinh tế hộ gia đình có hiệu quả kinh tế cao, hạn chế tình
trạng phá rừng làm nương rẫy, rừng được bảo vệ tốt hơn vì đã có người làm chủ thực sự. Trồng
rừng được đảm bảo với tỷ lệ thành rừng cao, tạo công ăn việc làm nâng cao thu nhập và cải thiện
đời sống của nhân dân, một bộ phân dân cư đã giàu lên từ nghề rừng, mở ra hướng sản xuất hàng
hoá gắn với thị trường tiêu thụ ở nhiều nơi, góp phần xoá đói giảm nghèo, từng bước góp phần
làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp, bên cạnh
những kết quả đạt được còn một số hạn chế trên một số mặt sau đây:
Ở một số địa phương thực hiện giao đất khi chưa có quy hoạch sử dụng đất, thực hiện
không đúng quy trình giao đất lâm nghiệp, không giao đúng đối tượng, thậm chí một số nơi trong
quá trình thực hiện còn nhầm lẫn giữa giao đất theo Nghị định 02/CP và khoán theo Nghị định
01/CP. Giao sai thẩm quyền, một số lâm trường cũng đứng ra giao đất lâm nghiệp cho hộ gia
đình, giao cả vào rừng đặc dụng, rừng phòng hộ xung yếu và rất xung yếu. Trong quá trình giao
đất không coi trọng việc bàn giao ranh giới ngoài thực địa, dẫn đến tình trạng sau khi giao nhiều
hộ gia đình, cá nhân không xác định được ranh giới đất của mình ở ngoài thực địa
Việc xác định giúp các hộ gia đình hướng sử dụng đất sau khi được giao còn hạn chế,
chung chung, thiếu cụ thể, dẫn đến tình trạng sau khi giao đất hộ gia đình không xác định được
mục tiêu sản xuất cũng như xác định được cây trồng sao cho phù hợp với điều kiện lập địa ở địa
phương.
1.4. Định hướng của chính sách lâm nghiệp
1.4.1. Mục đích của chính sách lâm nghiệp quốc gia
Chính sách lâm nghiệp quốc gia nhằm mục đích:
Bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng hiện tại và tương lai một cách bền

vững trên cơ sở đáp ứng các nhu cầu của quốc gia về sản phẩm và bảo vệ môi trường.
Nâng cao sản lượng và cải tiến khai thác, vận xuất, vận chuyển, chế biến, hệ thống thị
trường các sản phẩm từ rừng để giảm lãng phí, nâng cao lợi ích kinh tế, xã hội và xuất khẩu.
Nâng cao sự tham gia của người dân và có sự cam kết của tất cả các thành phần kinh tế
(nhà nước, hợp tác xã, hộ gia đình, công ty tư nhân, và cá nhân) trong bảo vệ, sản xuất và sử
dụng hợp lý các sản phẩm rừng và các lợi ích về môi trường.
Góp phần cải tiến điều kiện sống và thu nhập của người dân nông thôn và đặc biệt là
người dân và các cộng đồng dân tộc miền núi.
Mục đích cuối cùng là các chính sách lâm nghiệp được chấp nhận bởi người dân và các cơ
quan nhà nước sẽ chia sẻ quyền và trách nhiệm đối với các khu rừng sản xuất và phòng hộ. Với
mỗi vùng kinh tế cần tạo ra cơ hội để có được sự tham gia một cách đầy đủ trong phân chia lợi
ích của các sản phẩm và môi trường từ tài sản rừng quốc gia.
1.4.2. Các mục tiêu và chiến lược của chính sách lâm nghiệp quốc gia
Mục tiêu 1: Xây dựng lâm phận quốc gia gồm có rừng và đất rừng, nuôi dưỡng và quản lý
chúng phù hợp với mục đích xã hội và môi trường của quốc gia, tuân theo các chính sách lâm
nghiệp và Luật bảo vệ và phát triển rừng

13
Mục tiêu 2: Xây dựng kế hoạch bảo vệ và quản lý rừng cho các nguồn tài nguyên rừng
quốc gia, và đáp ứng được nhu cầu lập kế hoạch và quản lý cho từng địa phương.
Mục tiêu 3: Có sự cam kết tuân theo các chính sách lâm nghiệp, luật và các quy chế của tất
cả các thành phần xã hội trong các hoạt động quản lý tài nguyên rừng
Mục tiêu 4: Cải tiến việc khai thác sản, vận chuyển, chế biến và thị trường các sản phẩm từ
rừng để giảm sự lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng trong nước, nhập và xuất khẩu.
Mục tiêu 5: Xây dựng các cơ chế hành chính, tổ chức để thực hiện bảo vệ môi trường và
phát triển ngành lâm nghiệp bền vững
Mục tiêu 6: Thực hiện và duy trì một mức tài chính và đầu tư thích đáng cho ngành lâm
nghiệp từ nguồn nhà nước và tư nhân để hoàn thành mục đích và các mục tiêu của chính sách lâm
nghiệp quốc gia
Mục tiêu 7: Ưu tiên cao về bảo vệ môi trường trong quản lý tất cả các loại rừng và đất rừng

Mục tiêu 8: Hợp tác giữa các ngành để cải tiến điều kiện sống của người dân sống trong và
gần rừng nhà nước, đặc biệt là ở các vùng miền núi
1.5. Một số chính sách quan trọng liên quan đến quản lý đất lâm nghiệp
1.5.1. Luật Đất đai
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho
các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, hộ gia
đình và các nhân sử dụng ổn định lâu dài (điều 1).
Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, lâm
nghiệp có đất sản xuất (điều 2).
Người sử dụng đất có trách nhiệm bảo vệ, cải tạo, bồi bổ và sử dụng đất hợp lý, có hiệu
quả (điều 4).
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất được phân thành các loại sau đây (điều 11): Đất
nông nghiệp/ Đất lâm nghiệp/ Đất khu dân cư nông thôn/ Đất đô thị/ Đất chuyên dùng/ Đất chưa
sử dụng
Thời hạn giao đất sử dụng ổn định lâu dài để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là 20
năm, để trồng cây lâu năm và đất lâm nghiệp là 50 năm (điều 20)
Người sử dụng đất có những quyền sau đây (điều 73):
1. Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao.
3. Được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (thừa kế, thế chấp, cho
thuê, chuyển nhượng, chuyển đổi)
4. Hưởng các lợi ích do công trình công cộng về bảo vệ, cải tạo đất mang lại.
5. Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo và bồi bổ đất.
6. Được Nhà nước bảo vệ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp
của mình; được bồi thường thiệt hại về đất đai khi bị thu hồi.
Người sử dụng đất có những nghĩa vụ sau đây (điều 79):
Sử dụng đất đúng mục đích đúng ranh giới và các yêu cầu khác đã được quy định khi giao
đất.
Thực hiện các biện pháp để bảo vệ và làm tăng khả năng sinh lợi của đất.


14
Tuân theo những quy định về bảo vệ môi trường, không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng
của người sử dụng đất xung quanh.
Giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi.
Nhận xét chung: Từ khi ra đời đến nay luật đất đai đã được sửa đổi qua nhiều năm (1983,
1989, 1993, 1998, 2004) với mục tiêu là thích nghi/phù hợp với sự quản lý đất đai và phát triển
của xã hội, đồng thời tăng sự tham gia của các bên có liên quan trong quản lý đất đai.
1.5.2. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
Luật bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội thông qua năm 1991. Một số nội dung liên
quan đến các hoạt động LNXH như sau:
Nhà nước thống nhất quản lý rừng và đất trồng rừng. Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng
cho tổ chức, cá nhân (chủ rừng) để bảo vệ, phát triển và sử dụng ổn định lâu dài theo quy hoạch,
kế hoạch của nhà nước (điều 2).
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, rừng được phân làm các loại sau đây (điều 6):
Rừng phòng hộ/ Rừng đặc dụng/ Rừng sản xuất
Việc quyết định giao rừng, đất trồng rừng phải căn cứ vào điều 10
Quy hoạch và kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng và sử dụng rừng, đất trồng rừng đã được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Quỹ rừng, quỹ đất trồng rừng.
Yêu cầu khả năng của tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng rừng, đất trồng rừng.
Chủ rừng có những quyền lợi sau đây: (điều 40)
Được sử dụng rừng, đất trồng rừng ổn định, lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước;
được chủ động trong sản xuất kinh doanh, trong quản lý, sử dụng rừng theo quy định của pháp
luật.
Được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích rừng, đất trồng rừng được
giao, được thừa kế, chuyển nhượng, bán thành quả lao động, kết quả đầu tư cho người khác theo
quy định của pháp luật.
Được hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của nhà nước
Chủ rừng có những nghĩa vụ sau đây (điều 41):
Sử dụng rừng, đất trồng rừng đúng mục đích, đúng ranh giới đã quy định trong quyết định

giao rừng, đất trồng rừng và theo quy chế quản lý, sử dụng đối với từng loại rừng.
Chấp hành quy định của pháp luật về quản lý bảo vệ, phát triển rừng và sử dụng đất trồng
rừng.
Điều quan trọng của luật bảo vệ phát triển rừng được sửa đổi năm 2005 là đã đề cập đến
rừng cộng đồng và giao rừng cho cộng đồng quản lý, đây là một chủ trương quan trọng về xã hội
hoá ngành lâm nghiệp nhằm tăng hiệu quả quản lý rừng và đất rừng.
1.5.3. Quyết định 178/2001/QĐ-TTg
Quyết định 178/2001/QĐ-TTg đã đề cập đến quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá
nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. Đây là một quyết định mang đến
lợi ích cho người dân tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Phân chia sản phẩm chính
 Căn cứ

15
- Gỗ: UBND tỉnh quy định, nhưng phải tuân theo khung tỷ lệ được quy định tại các điều 5,
6, 7, 8, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20 của QĐ 178/2001/QĐ-TTg
- Sản phẩm hàng năm: UBND tỉnh quy định mức hưởng lợi
- Lâm sản để phân chia là khối lượng lâm sản thực tế khai thác và tập trung tại bãi giao
(hoặc kho) lâm sản
- Bãi giao (hoặc kho) lâm sản là địa điểm tập trung lâm sản sau khai thác và vận xuất. UBND tỉnh
quy định địa điểm bãi giao
 Hình thức phân chia
- Hình thức I (áp dụng đối với hộ gia đình được giao rừng và đất lâm nghiệp): Hộ gia đình
được hưởng toàn bộ số lâm sản tại bãi giao và phải nộp vào ngân sách nhà nước khoản tiền tương
ứng với số lâm sản được phân chia và các khoản thuế theo quy định hiện hành.
B = T
g
- T
th
- T

ns

T
ns
= K
ls
x G
c
x T
lx
T
th
= K
ls
x G
g
x T
tg

Trong đó: B: Khoản tiền hộ gia đình được hưởng
T
g
: Số tiền bán gỗ tại bãi giao
T
th
: Thuế tài nguyên
T
ns
: Tiền nộp ngân sách
K

ls
: Khối lượng LS khai thác tại bãi giao
G
c
: Giá cây đứng G
g
: Giá gỗ tại bãi giao
T
lx
: Tỷ lệ nộp NS xã T
tg
: Tỷ lệ nộp thuế tài nguyên
Đối với hộ gia đình nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp
- Hình thức II: Bên giao khoán (hoặc hộ gia đình) nhận toàn bộ số lâm sản tại bãi giao, trả
cho hộ gia đình (hoặc bên giao khoán) bằng tiền tương ứng với số lâm sản mà họ được hưởng, và
phải chịu trách nhiệm nộp thuế
- Hình thức III: Mỗi bên nhận sản phẩm phân chia tại bãi giao theo tỷ lệ quy định và chịu
trách nhiệm nộp thuế tương ứng với phần lâm sản được hưởng.
Quản lý và chi phí khai thác lâm sản
 Hộ gia đình được giao hoặc nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp khi được phép khai thác
chính được tự tổ chức hoặc thuê khai thác
 Hộ gia đình được giao rừng và đất lâm nghiệp phải chịu toàn bộ chi phí liên quan đến
khai thác lâm sản
 Hộ gia đình nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp chỉ chịu chi phí liên quan đến khai thác
lâm sản mà hộ gia đình được hưởng.
Quản lý và sử dụng các sản phẩm được phân chia
 Hộ gia đình
 Doanh nghiệp Nhà nước
 BQL rừng phòng hộ; BQL rừng đặc dụng
 Xã


16
Cấp phát kinh phí trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng: Kinh phí ngân sách theo Thông tư số
43/2002/TT-BTC ngày 7/5/2002 của Bộ tài chính về hướng dẫn quản lý, cấp phát vốn ngân sách
cho Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.

1.5. 4. Các chính sách khác
Qui định 1171 - QĐ về qui chế quản lý các loại rừng: Sản xuất, phòng hộ, đặc dụng ngày
30/12/1986. Theo Qui định này rừng và đất rừng ở Việt Nam được thống nhất chia làm 3 loại:
Sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Trong quy định này ghi rõ cơ chế quản lý, quy hoạch 3 loại
rừng, chức năng nhiệm vụ của từng loại rừng trong phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường
ở địa phương và trong cả nước.
Nghị định 02/CP về giao đất Lâm nghiệp cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng vào
mục đích Lâm nghiệp, ban hành ngày 15/1/1994. Đây là nghị định đầu tiên của Chính phủ hướng
dẫn giao đất lâm nghiệp đến nhiều thành phần kinh tế khác nhau, trong đó hộ gia đình, cá nhân
cũng được tham gia nhận đất để tổ chức sản xuất lâm nghiệp. Đến năm 1999, Chính phủ đã ban
hành nghị định 163/CP, mở rộng việc giao rừng và đất rừng, quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ
của người nhận đất, nhận rừng.
Nghị định 01/CP về giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất Nông nghiệp, Lâm
nghiệp và Thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày 4/1/1995.
Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg ngày 16/1/1999 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện
trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp.
Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm
nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Đây là nghị định tiếp theo nghị định 02, với tên gọi đất lâm nghiệp: Rừng tự nhiên, rừng trồng,
đất chưa có rừng quy hoạch cho lâm nghiệp
Quyết định số 202/TTg ngày 2-5-1994 về quy định khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh
rừng và trồng rừng. Các hộ gia đình nhận khoán rừng được hưởng công khoán, tận thu sản phẩm
phụ, lựa chọn hình thức nhận khoán, kết hợp sản xuất nông nghiệp khi rừng chưa khép tán, được
mua gỗ làm nhà.

Ngoài ra còn có một số nghị định 01; 02 CP/2000 về giao khoán và giao đất lâm nghiệp cho
các tổ chức và hộ gia đình; Quy chế 08 về quản lý 3 loại rừng (phòng hộ, đặc dụng và sản xuất)
đã có tác dụng quản lý tốt tài nguyên rừng và đất rừng.
1.5.5. Chính sách có liên quan đến đầu tư và tín dụng
Chỉ thị số 202-CT về việc cho vay vốn sản xuất nông lâm ngư nghiệp đến hộ gia đình ngày
28/6/1991.
Quyết định 264/HĐBT ngày 22-7-1992 về chính sách đầu tư và phát triển rừng. Quyết định
này giải quyết những khó khăn về vốn cho nhân dân gây trồng cây lâm nghiệp ở vùng định canh
định cư, Nhà nước hỗ trợ cho vay vốn không tính lãi.
Nghị định số 14/CP về chính sách cho hộ vay vốn để sản xuất nông lâm ngư nghiệp ngày
2/3/1993.
Chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn số
67/1999/QĐ-TTg ban hành ngày 1/4/1999. Nội dung của quyết định này gồm một số chính sách
tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển Nông nghiệp và nông thôn như:
Nguồn vốn:

17
Nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm:
+ Vốn của ngân hàng huy động.
+ Vốn ngân sách Nhà nước.
+ Vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế và nước ngoài.
Nguồn vốn huy động cho phát triển nông nghiệp và nông thôn chủ yếu dựa vào các hình
thức sau:
Đẩy mạnh huy động tiền tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, phát hành trái phiếu, trái phiếu
ngân hàng thương mại kể cả bằng đồng Việt Nam, bằng ngoại tệ, bằng vàng khi cần thiết.
Từng bước đa dạng hoá vốn trung hạn, dài hạn để bảo đảm cho các chương trình phát triển
nông nghiệp và nông thôn trong từng thời kỳ
1.5.6. Chính sách có liên quan đến phát triển kinh tế xã hội nông thôn
Ngày 6/3/1968 Hội đồng Chính phủ đã ra nghị quyết 38 về công tác định canh định cư kết
hợp với hợp tác nông nghiệp ở miền núi.

Ban chấp hành Trung Ương Đảng ra chỉ thị 29/CT-TW ngày 12/11/1983 về việc đẩy mạnh
giao đất giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh doanh theo hướng nông lâm kết hợp.
Chỉ thị 100 (1981), Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988) về đổi mới tổ chức quản lý Lâm
nghiệp đã thúc đẩy các Lâm trường quốc doanh áp dụng chế độ khoán sản phẩm đến các hộ gia
đình công nhân viên. Quyết định số 72- HBĐT về chủ trương chính sách cụ thể phát triển kinh tế
xã hội miền núi ngày 13/3/1990.
Thông tư liên bộ số 01/TT/LB của bộ Lâm nghiệp và Tổng cục quản lý ruộng đất ngày
6/12/1991 đã hướng dẫn việc giao rừng và đất để trồng rừng cho các tổ chức và cá nhân để sử
dụng vào mục đích Lâm nghiệp. Ngày 6/11/1992 Hội đồng bộ trưởng ra quyết định số 184 về
việc đẩy mạnh giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây gây rừng.
Nghị định số 13- CP về công tác khuyến nông ngày 2/3/1993. Chỉ thị 525- TTg về chủ
trương biện pháp phát triển kinh tế xã hội miền núi ngày 2/11/1993. Ngày 16/3/1995 Thủ tướng
chính phủ đã phê duyệt chương trình khuyến lâm từ năm 1995-2000, thông qua công tác này
nâng cao dân trí để các hộ tự giác tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật, biết quản lý và tiêu thụ sản phẩm
của gia đình.
Nghị định 178 năm 2002 của Chính phủ về phân chia lợi ích cho người nhân đất, nhận
rừng. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 661/QĐ-TTg ngày 29/07/1998 về mục tiêu, nhiệm
vụ, chính sách và tổ chức thực hiện chương trình 5 triệu ha rừng.
Đánh giá chung: Chính sách là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình sử
dụng và quản lý tốt đất lâm nghiệp. Có thể phân chính sách thành 2 nhóm chính: 1) nhóm chính
sách tác động trực tiếp vào quản lý tài nguyên rừng và đất rừng và 2) nhóm chích sách tác động
vào phát triển nông thôn/các cộng đồng sống gần rừng.
Trong quá trình thực thi các chính sách trực tiếp và gián tiếp đều bộc lộ các điểm mạnh và
điểm yếu, vì vậy hoạt động đánh giá tác động của các chính sách là rất cần thiết cho từng giai
đoạn phát triển để từng bước cải tiến chính sách cho phù hợp.
CÂU HỎI KIỂM TRA
CÂU 1. Anh hay chị hãy phân tích các giai đoạn lịch sử và các chính sách trong quản lý đất lâm
nghiệp của nước ta?
CÂU 2. Anh hay chị hãy phân tích Mục đích và các mục tiêu và chiến lược của chính sách lâm
nghiệp quốc gia?


18
CHƯƠNG 2
QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIAO ĐẤT LÂM NGHIỆP
CÓ SỰ THAM GIA
2.1. Thực trạng công tác quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp
Đất lâm nghiệp và đất có khả năng lâm nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn (2/3) của diện tích
đất tự nhiên trong toàn quốc. Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng còn gặp nhiều khó khăn, vì vậy
nạn phá rừng đã làm suy kiệt các nguồn tài nguyên rừng và gây ra những vấn đề xói mòn và phá
vỡ các vùng rừng đầu nguồn tự nhiên. Lâm nghiệp là một lĩnh vực tạo cơ hội cho nhiều hộ gia
đình đa dạng hoá về nguồn thu nhập. Kinh nghiệm tại Việt Nam cho thấy một tiền đề thiết yếu
cho việc tái sinh rừng là việc giao đất cho các hộ dân và cộng đồng tham gia quản lý. Kinh
nghiệm này được phản ánh trong các chủ trương và chương trình quốc gia như chương trình
trồng mới 5 triệu hécta rừng và các chương trình quản lý nguồn tài nguyên dựa vào cộng đồng.
Quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp phải xúc tiến trước khi giao đất cho các hộ, các nhóm
hộ, cộng đồng hoặc các doanh nghiệp quản lý. Quy hoạch sử dụng đất bền vững phải được tiến
hành theo các nhu cầu địa phương đối với các điều kiện tự nhiên và phát triển kinh tế - xã hội.
Việc này sẽ mang lại sự quản lý và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tái tạo
lại những vùng rừng bị cạn kiệt. Sự tham gia của người dân trong việc lập qui hoạch sử dụng đất
lâm nghiệp là cần thiết nhằm đảm bảo người dân nhận thức rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình
trong việc quản lý, bảo vệ và sử dụng đất lâm nghiệp, đất có khả năng lâm nghiệp và rừng.
Công tác quy hoạch sử dụng đất nói chung và quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp đã có từ
lâu, tuy nhiên công tác quy hoạch đất có nhiều cấp độ khác nhau như quy hoạch cấp quốc gia,
quy hoạch cấp vùng sinh thái, quy hoạch cấp tỉnh hoặc huyện. Tuỳ theo cấp độ mà chúng ta sử
dụng các phương pháp tiếp cận khác nhau như tiếp ngành hay liên ngành cũng như tiếp cận có sự
tham gia với nhiều mức độ khác nhau.
Do đặc thù của ngành lâm nghiệp và đất lâm nghiệp như đã đề cập ở chương mở đầu là địa
hình phức tạp, che khuất nhiều do tài nguyên rừng, vùng sâu vùng xa, vì vậy việc quy hoạch để
giao đất đòi hỏi phải chi tiết và có sự tham gia của cộng đồng là rất cần thiết. Chính vì vậy để
giao đất và giao rừng cho cộng đồng quản lý trong tài liệu này chúng tôi tập trung đề cập đến

phương pháp quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp có sự tham gia ở cấp xã.
Quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia (GĐLNCSTG) ở cấp xã dựa
trên nền tảng của quy hoạch sử dụng đất cấp xã theo nghị định 181, nó là một bước thiết yếu để
hỗ trợ các hoạt động lâm nghiệp bền vững. Xây dựng tiến trình GĐLNCSTG tại các xã nhằm hỗ
trợ cho các huyện, xã thực hiện tốt công tác giao đất đến tận người dân.
Trình tự nội dung lập quy hoạch sử dụng đất chi tiết cấp xã theo nghị định 181
1. Điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa
phương
1.1. Các thông tin
1.2. Thông tin về quy hoạch sử dụng đất cấp huyện
1.3. Thu thập bản đồ hiện trạng sử dụng đất, BĐ địa chính cấp xã
2. Đánh giá tình hình sử dụng đất và biến động sử dụng đất của xã 10 năm trước
3. Đánh giá tiềm năng đất đai và sự phù hợp của hiện trạng sử dụng đất so với tiềm năng
đất đai, so với xu hướng phát triển Theo khoản 3 mục I phần II của NĐ 181

×