KỂ CHUYỂN BÉ NGHE – SỬ TÍCH
ÔNG TÁO
Ngày 23 tháng chạp hằng năm Âm lịch, người ta quen lệ tiễn ông Táo về
trời. Người miền Bắc gọi là Chạp ông Công, người miền Nam gọi cách cụ
thể hơn là ngày đưa ông Táo về Trời.
Việc tin thờ Táo quân chắc hẳn rất xa xưa, nhưng không vượt trước
thời kỳ con người còn sống theo lối du mục, sớm nhất cũng chỉ từ giai
đoạn biết định cư trồng lúa, làm rẫy nghĩa là biết nấu nướng, làm chín
thức ăn. Các loại phương tiện để kê nấu (sau này là cà ràng, hỏa lò)
được xem là một sự hóa thân của thần bếp.
Tích ông Táo
Học phái Lão Tử cho rằng có một vị thiên thần coi việc thiện ác của từng
gia đình và mỗi năm một lần về tâu sự với Ngọc Hoàng. Người Việt Nam
quan niệm về ông táo khác với người Trung Hoa, tích kể rằng:
Ngày xưa có hai vợ chồng nhà nọ rất nghèo khổ. Chồng tên là Trọng
Cao, vợ là Thị Nhi. Họ lấy nhau đã lâu mà không có con, cho nên thường
buồn phiền cãi lẫy với nhau.
Một hôm Trọng Cao quá tức giận mà đánh vợ. Tức mình, Thị Nhi bỏ nhà
ra đi, rồi gặp một chàng trai là Phạm Lang, anh này đã dùng lời ngon
ngọt và khéo léo quyến rũ được Thị Nhi. Hai người ăn ở với nhau thành
vợ chồng.
Khi Trọng Cao hết giận, thấy vợ bỏ đi mất, liền đi tìm kiếm khắp nơi,
nhưng không thấy tăm hơi, buồn rầu bỏ công ăn chuyện làm, ra đi làm
người hành khất để đi tìm vợ.
Một hôm, Trọng Cao đến một nhà khá giả xin ăn, bà chủ nhà đem cơm
ra cho. Thì ra đó là Thị Nhi. Hai người nhận ra nhau, tình xưa nghĩa cũ
dễ nào quên. Thị Nhi hối hận vì đã lấy Phạm Lang. họ đang hàn huyên
thì bất ngờ người chồng mới là Phạm Lang từ ngoài đồng đi làm về, Thị
Nhi mới nói Trọng cao vào ẩn trong đống rơm. Phạm Lang về nhà để cốt
lấy tro bón ruộng, nên đốt đống rơm lấy tro. Trọng Cao đang say ngủ
trong đống rơm vì đường xa mỏi mệt ấy bị chết cháy, người vợ cũ là Thị
Nhi, thấy vậy cũng lao vào lửa chết theo. Phạm lang thấy vợ chết cũng
lao mình vào đống rơm đang cháy ấy mà chết.
Cũng có tích khác: sau khi Thị Nhi lấy Phạm Lang, một hôm trong nhà
cúng đốt mã ngoài sân, có một hành khất vào ăn xin. Thị Nhi nhận ra
người chồng cũ của mình, động lòng thương đem gạo ra cho. Bị Phạm
Lang nghi ngờ, Thị Nhi lấy làm xấu hổ đâm đầu vào đống lửa đang đốt
mã mà tự tử. Trọng Cao cảm tình ân nghĩa cũng lao vào lửa mà chết
theo, Phạm lang vì mối tình thương vợ, cũng nhảy vào cùng chết.
Thượng đế thấy ba người có nghĩa mới phong cho làm Táo Quân, và
phân chia mỗi người một việc:
Phạm Lang là Thổ Công trông lo việc bếp.
Trọng Cao là Thổ Địa trông nom việc nhà.
Thị Nhi là Thổ Kỳ trong nom việc chợ búa.
Ý nghĩa của tích truyện
Vượt qua cái lý để đạt tới cái tình: Người Việt xưa không bao giờ có thể
chấp nhận việc đa phu, một bà hai ông. Người ta thường chỉ trích "Thế
gian một vợ một chồng, không như vua bếp hai ông một bà". Như vậy,
điều mà tích truyện nhắc tới, đó không phải là cái lý, nhưng là cái tình
nghĩa phu thê, sống chết cùng nhau.
Liên hệ đến gia đình: Quan niệm táo quân là vị thần thứ nhất, quan
trọng hàng đầu trong gia đình, nhiều địa phương có tục lệ, người con
gái khi mới về nhà chồng, phải làm lễ ở bếp, hay ở bàn thờ Thổ Công,
để xin phù trợ về sau trong công việc bếp núc, tề gia, nội trợ, quán
xuyến gia đình. Tục ngữ phương Tây có câu: "bàn tay đưa nôi là bàn tay
cai trị thế giới", người Việt Nam thì quan niệm: Người nội trợ là nội
tướng trong gia đình.
Bếp lửa mang một ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài công dụng nấu chín
thực phẩm, nó còn là nơi quy tụ cả gia đình để chia sẻ với nhau bữa ăn
cũng như lửa ấm. Lễ hội bao giờ cũng gắn bó với nghi thức thắp lửa
thiêng. Lửa xua đuổi thú dữ, tạo bầu không khí ấm áp…Không gia đình
nào là không có bếp lửa. Ngày nào lửa không bén trên bếp, ngày ấy là
một ngày gia đình thiếu hơi ấm, thiếu tình thương.
Thường xưa kia, có gì lủng củng, đau yếu là người ta phải xem lại bếp
núc tức là ông táo có được giữ sạch sẽ hay không?
Táo quân định đoạt phúc đức cho gia đình. Phúc đức này là do sự ăn ở
phải đạo của gia chủ và của mọi người trong nhà.
Sự tích ông táo trong dân gian Việt Nam, có những nét đẹp truyền
thống. Người Việt Nam tiễn ông Táo ngày 23 tháng Chạp chứ không tế
Táo quân vào mùa hạ như người Hoa. Xưa. Trước ngày 23 tháng Chạp,
người ta đến hàng vàng mã mua hai cái mũ nam, một cái mũ nữ và một
hoặc ba con cá chép (dùng cho Táo cưỡi), rồi đem đốt những vật dụng
đang thờ, đã hư cũ. Đồng thời người ta cũng thay luôn mấy "Ông Táo"
đã sứt mẻ bằng cách "trân trọng" gửi ở bụi tre hoặc một gốc cây nào đó
sau vườn, về sau.
Tuy nhiên, hiện ở nông thôn, nhiều nơi vẫn làm gà, cúng "hăm ba tháng
Chạp Táo quân về trời" đàng hoàng. Họ coi ngày này như hội nghị
thường kỳ của thượng giới, và cũng có ý tạo điều kiện cho Táo quân kịp
trở về trần gian ăn Tết với gia đình.
Thổ Công chính là bộ ba gồm các vị: Thổ Công trông nom việc trong
bếp, Thổ Địa trong nom việc trong nhà, Thổ Kỳ trông nom việc chợ búa
cho đàn bà và việc sản sinh của vật nuôi và cây trồng trong gia đình.
Gộp lại cả ba vị Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ được gọi là Táo Quân với
nhiệm vụ định phúc cho cả gia đình. Táo Quân, được hiểu nôm na là
vua bếp, ba ông đầu rau hay ông núc vốn.
Táo Quân được các gia đình cúng lễ quanh năm, vào các dịp sóc, vọng
thường hương hoa oản quả. Những dịp lễ tết giỗ chạp hay có công to
việc lớn trong nhà có thể cúng chay hoặc cúng mặn tuỳ nghi. Dịp lễ long
trọng nhất dành riêng cho Táo Quân chính là tết ông Công ông Táo vào
23 tháng chạp. Theo tín ngưỡng cổ truyền, đây là ngày Táo Quân lên
trời báo cáo Ngọc Hoàng Thượng đế những điều tai nghe mắt thấy ở
trần gian, những hành vi, việc làm tốt, xấu của các thành viên trong gia
đình trong năm một cách khách quan, trung thực. Phương tiện để Táo
Quân lên trời là cá chép vàng. Tết ông Công ông Táo làm to nhỏ, chay
mặn tùy khả năng mỗi gia đình, nhưng dứt khoát phải có bộ mã Táo
Quân mới. Sau khi cúng Táo Quân, người ta hóa mã, đồng thời hóa cả
bộ mã năm trước.
Lễ cúng Táo Quân ngày 23 tháng Chạp được coi là mang tính cách
chuyển giao năm cũ, đón chào năm mới. Người ta chuẩn bị chu đáo cho
chiều 30 là thời điểm đón ông Công ông Táo trở về trần gian làm nhiệm
vụ năm mới. Ban thờ Thổ Công thường bày biện khá đơn giản gồm bộ 3
chiếc mũ. Chiếc mũ ở giữa là mũ đàn bà, hai bên là mũ đàn ông. Bộ mũ
(dù ba chiếc hay một chiếc) đều kèm theo chiếc áo và đôi hia đính vào
bệ giấy hoặc khi cúng được kê trên bệ là vài trăm thoi vàng mã.
Hình ảnh Táo Quân - vua bếp cũng trở nên gần gũi với cuộc sống hiện
đại hơn với quan niệm gia đình nào được Táo Quân phù hộ nhiều thì
hạnh phúc, yên ổn, thành đạt, bếp đỏ lửa mỗi ngày. Những gia đình
không có điều kiện đỏ lửa mỗi ngày để ông vua bếp làm nhiệm vụ thì
ngầm hiểu là Táo Quân chưa hoàn thành nhiệm vụ giữ gìn tổ ẩm gia
đình một cách trọn vẹn.
Lễ vật cúng Táo Quân gồm có: mũ ông công ba cỗ hay ba chiếc (hai mũ
đàn ông và một mũ đàn bà). Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh
chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang
sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyết màu
sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một
cỗ mũ ông công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một
đôi hia bằng giấỵ Màu sắc của mũ, áo hay hia ông công thay đổi hàng
năm theo ngũ hành:
+ Năm hành kim thì dùng màu vàng
+ Năm hành mộc thì dùng màu trắng
+ Năm hành thủy thì dùng màu xanh
+ Năm hành hỏa thì dùng màu đỏ
+ Năm hành thổ thì dùng màu đen
Những đồ "vàng mã" này (mũ, áo, hia, và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ
được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị
cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Quân.
Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng
Táo Quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới
tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng
Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí
hiên ngang như con gà cồ vậy!
Ngoài ra, để các ông và các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền
Bắc Việt Nam người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong
chậu nước, ngụ ý "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông
táo về trời. Con cá chép này sẽ sau đó được "phóng sinh" (thả ra ao, hồ
hay sông). Tại miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với
yên, cương đầy đủ. Ở miền Nam thì giản dị hơn, người ta chỉ cúng mũ,
áo và đôi hia bằng giấy.
Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc
làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng v v)
hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc v v ) để tiễn
Táo Quân.
Sự tích Táo Quân bắt nguồn từ Trung Hoa, cho nên truyện đã được
"Việt Nam hóa" với nhiều tình tiết khác nhau. Tuy nhiên, các câu truyện
vẫn nói lên "tình nghĩa yêu thương" giữa một người vợ và hai người
chồng cũ và mới. Chính vì những mối ân tình đó mà ba người đều đã
quyên sinh vì nhau Thượng đế thông cảm mối tình sâu nghĩa đậm này
đã cho về bếp núc ở gia đình Bài vị thờ vua Bếp thường được ghi vắn
tắt là "Định Phúc táo Quân" nghĩa là thần định mọi sự hạnh phúc.