Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Luận văn tốt nghiệp đề tài " Bảo hiểm các thiết bị điện tử" phần 6 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.1 KB, 9 trang )


46

- Cán bộ giám định lập phiếu đề xuất
- Phòng kế toán kiểm tra chứng từ
- Khi phòng nghiệp vụ và phòng kế toán đã thống nhất thì trưởng phòng
nghiệp vụ ký quyết định bồi thường cho người được bảo hiểm. Hồ sơ được
chuyển cho phó giám đốc phụ trách khối để báo cáo.
- Nếu có vướng mắc thì báo cáo phó giám đốc phụ trách khối xem xét
quyết định. Trong trường hợp này bản thông báo bồi thường cho người được
bảo hiểm do phó giám đốc ký hoặc có thẩm quyền cho trưởng phòng nghiệp
vụ ký.
4. Thời gian xét bồi thường
Đối với các vụ tổn thất dưới 50.000USD theo quy tắc của Bộ tài chính
ban hành thì sau 30 ngày kể từ khi nhận đầy đủ hồ sơ công ty sẽ giải quyết
xong bồi thường cho người được bảo hiểm.
- Phòng nghiệp vụ xét hồ sơ làm tờ trình, biên bản giám định: 7 ngày kể
từ khi nhận đủ hò sơ và trình lãnh đạo xét.
- Chuyển phòng kế toán xem xét tính hợp pháp của chứng từ: 7 ngày.
- Lãnh đạo xét duyệt hồ sơ lần cuối: 7 ngày
- Làm thông báo bồi thường và đề nghị khách hàng chấp thuận.
Đối với các vụ tổn thất có giá trị đến 100.000USD thời gian giải quyết
bồi thường sẽ phụ thuộc vào việc cơ quan giám định trung gian hoặc Công ty
nhân tái tham gia hay không.
5. Thủ tục trả tiền bồi thường
Căn cứ quyết định bồi thường của toàn quốc, giám đốc, phó giám đốc
chi nhánh, văn phòng đại diện, trưởng phòng nghiệp vụ. Phòng kế toán của
các đơn vị thực hiện chuyển ngay tiền bồi thường cho khách hàng. Đối với
các vụ tổn thất của các khách hàng do chi nhánh hoặc văn phòng đại điện
quản lý nhưng thuộc thẩm quyền giải quyết của công ty việc trả tiền bồi
thường cho người được bảo hiểm do các chi nhánh hoặc các văn phòng đại


diện thực hiện theo uỷ quyền của công ty.

47

* Một số điểm cần lưu ý đối với những trường hợp bồi thường trên
phân cấp của đơn vị:
- Sau khi giám đốc công ty quyết định việc bồi thường, các đơn vị có
trách nhiệm thông báo cho khách hàng biết quyết định đó và báo cáo kịp thời
ý kiến của khách hàng với công ty. Nếu khách hàng không chấp nhận thì đề
nghị có công văn khiếu nại nêu rõ lý do, cung cấp thêm bằng chứng Nếu xét
thấy hợp lý thì các đơn vị bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ, báo cáo giám đốc quyết
định điều chỉnh cho phù hợp.
- Trước khi trả tiền bồi thường cho khách hàng, yêu cầu khách hàng
phải làm thủ tục chuyển quyền bồi thường bên thứ ba cho PTI (nếu phát sinh
thêm trách nhiệm).
- Các đơn vị có trách nhiệm lập hồ sơ, thống kê tổn thất trên địa bàn và
báo cáo định kỳ 6 tháng với Công ty.
- Mọi việc xử lý, giải quyết bồi thường phải thực hiện kip thời, đúng
thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng bảo hiểm hoặc trong Quy tắc bảo
hiểm. Nghiêm cấm việc gây phiền hà, áp dụng chế tài một cách tuỳ tiện gây
thiệt hại cho quyền lợi của khách hàng cũng như quyền lợi của công ty.

48



49

Trên đây là một số bước chủ yếu trong quy trình giám định bồi thường
của nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử.

Xét tình hình thực tế qua 4 tháng cuối năm 1998 và 4 tháng đầu năm
1999 có 3 vụ tổn thất xảy ra. Năm 1998 có hai vụ tổn thất, vụ thứ nhất là tổn
thất xảy ra ở bưu điện tỉnh Đồng tháp với số tiền bồi thường là 12,268 (triệu
đồng), vụ thứ hai là xảy ra tại bưu điện Phú Yên, số tiền bồi thường lên tới
210,336 (triệu đồng). Tổng cộng số tiền phải bồi thường năm 1998 là
222,6059 (triệu đồng). Sang năm 1999 có một vụ tổn thất xảy ra tại bưu điện
tỉnh Ninh thuận số tiền mà công ty đã bồi thường là 332,29 (triệu đồng).
c. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất :
Nếu làm tốt công tác này không chỉ mang lại hiệu quả kinh doanh mà
còn thực hiện được mục tiêu cao cả là mang lại an toàn về tài sản, tính mạng
cho người tham gia bảo hiểm làm cho họ yên tâm trong kinh doanh và nó còn
thể hiện sự quan tâm của công ty đối với khách hàng.
Ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử hàng năm công ty PTI trích ra 2%
từ doanh thu phí bảo hiểm để làm quĩ dự phòng và hạn chế tổn thất. Cụ thể là
4 tháng đầu hoạt động của năm 1998 công ty đã trích ra 52,380 (triệu đồng)
và đến năm 1999 sau 4 tháng đầu năm cũng trích ra một khoản là 66,44 (triệu
đồng).
Bên cạnh đó công ty PTI còn cử cán bộ giảng giải cho khách hàng cách
sơ cứu khi gặp hoả hoạn, ngập nước do mưa bão như giảm nhẹ độ ẩm trong
phòng chứa thiết bị xuống dưới 40%, chuyển các thiết bị ra khỏi môi trường
ẩm tới phòng chứa thích hợp và không được khởi động lại thiết bị .
Những việc làm trên của công ty PTI đã tạo dược mối quan hệ thân thiết
giữa khách hàng với công ty. Đồng thời làm giảm bớt số tiền chi phí hàng
năm để bồi thường tổn thất.
Sau đây ta xem xét kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty PTI ở
nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử.

50

Bảng 9: Hiệu quả và kết quả kinh doanh bảo hiểm thiết bị điện tử năm 1998

và năm 1999
Chỉ tiêu Đơn vị 4 tháng cuối
năm1998
4 tháng đầu
năm1999
1.Tổng doanh thu phí bảo
hiểm thiết bị điện tử
triệu vnđ 2.619,000 3.322,000
2.Chi hoạt động
-Chi bồi thường
-Chi hoa hồng
-Chi dự trữ tổn thất lớn
- Chi tuyên truyền quảng cáo
-Chi tái bảo hiểm
-Chi đề phòng hạn chế tổn thất
-Chi quản lí
-Chi thuế
Tổng chi

triệu vnđ
triệu vnđ
triệu vnđ
triệu vnđ
triệu vnđ
triệu vnđ
triệu vnđ
triệu vnđ
triệu vnđ

222,605

130,950
225,234
36,666
785,700
52,380
130,950
104,760
1689,245

332,200
166,100
285,692
46,508
996,600
66,440
166,100
332,200
2.391,840
3.Cơ cấu chi
-Chi bồi thường
-Chi hoa hồng
-Chi dự trữ tổn thất lớn
- Chi về tuyên truyền quảng
cáo
-Chi tái bảo hiểm
-Chi đề phòng hạn chế tổn thất
-Chi quản lí
-Chi thuế

%

%
%
%
%
%
%
%
100
13,17
7,75
13,33
2,17
46,51
3,1
7,75
6,20
100
13,89
6,94
11,94
1,95
41,66
2,79
6,94
13,89
4.Tổng chi /doanh thu % 64,49 72
5.Chênh lệch thu chi triệu vnđ 929,775 930,160
6.Hiệu quả kinh tế
-Doanh thu/ giá thành
-Lợi nhuận /giá thành


1,55
0,55

1,388
0,388

51

Nguồn: Phòng Bảo hiểm tài sản kỹ thuật Công ty PTI
(1) Doanh thu bảo hiểm
Nhìn vào bảng 9 ta thấy doanh thu bảo hiểm thiết bị điện tử đã tăng đáng
kể cùng với một lượng thời gian như nhau sau 2 năm 1998 và 1999 là 703
(triệu). Để có được kết quả như vậy công ty PTI nói chung và phòng bảo hiểm
tài sản Kĩ thuật nói riêng đã cố gắng hết sức để khai thác được nhiều đơn bảo
hiểm mới, tạo điều kiện tăng doanh thu năm sau cao hơn năm trước.
(2). Chi hoạt động :
Nhìn chung qua bảng 9 ta thấy các khoản chi hầu như có xu hướng tăng
về số tuyệt đối.
- Trong 4 tháng đầu mới triển khai do phải bồi thường 2 vụ tổn thất nên mức
chi bồi thường là 222,605(triệu đồng). Sang đến năm 1998 lại có thêm vụ tổn thất
là phải bồi thường cho bưu điện tỉnh Ninh thuận số tiền là 332,2(triệu đồng).
- Chi hoa hồng xét về số tuyệt đối tăng từ 130,950 (triệu đồng) năm1998,
đến 166,1 (triệu đồng) năm 1999. Nhưng tỉ lệ hoa hồng /tổng chi lại giảm :
4 tháng năm 98: 7,75%
4 tháng năm 99: 6,94%
Đó là do tình trạng hiện nay hầu hết các đơn về bảo hiểm TBĐT mà
công ty cấp đều do cán bộ nhân viên phòng bảo hiểm Tài sản -kĩ thuật trực
tiếp khai thác mà không phải qua môi giới. Đây là một trong những thuận lợi
lớn cho công ty PTI, nhất là những thiết bị có giá trị lớn cần phải tái bảo

hiểm. trong trường hợp mà phải thông qua môi giới thì số hoa hồng phải trả
cho người môi giới đôi khi rất lớn làm giảm số lợi nhuận của công ty.
- Tiếp đến là chi đề phòng hạn chế tổn thất cũng tăng cụ thể là năm
1998: là 52,38(triệu đồng) sang đến năm 1999 tăng lên là 66,44(triệu đồng),
tuy nhiên tỉ lệ chi lại giảm xuống từ năm 1998 là 2,86% đến năm 1999 còn
2,79 %.Điều này công ty PTI cần xem xét lại vì chi phí đề phòng hạn chế tổn

52

thất đóng một vai trò hết sức quan trọng góp phần nâng cao tính hiệu quả kinh
doanh hạn chế bồi thường giảm tổn thất cho người tham gia .
- Nhìn vào bảng 9: Chi dự trữ tổn thất lớn tăng về số tuyệt đối nhưng lại
giảm về tỉ lệ chi. Cụ thể là năm 1998 số tiền chi là 225,234 (triệu đồng)
nhưng đến năm 1999 tăng lên là 285,692 (triệu đồng) và tỉ lệ chi giảm từ
13,33% xuống còn 11,94%. Lí do tỉ lệ chi này giảm xuống là do năm 1999 cơ
cấu chi thay đổi đặc biệt là chi thuế có phần tăng lên do Bộ tài chính áp dụng
luật thuế giá trị gia tăng (VAT).
- Chi tuyên truyền quảng cáo: Đối với nghiệp vụ thiết bị điện tử là
nghiệp vụ mới nhưng có đặc điểm là ở những đơn vị có loại thiết bị này
thường tập trung vào một số khách hàng lớn. Do vậy hình thức quảng cáo
hiện nay ở công ty Bảo hiểm bưu điện là giới thiệu trực tiếp với khách hàng
bằng việc phát hành tài liệu hướng dẫn đồng thời giải thích tỉ mỷ cho khách
hàng về loại hình nghiệp vụ này. Do vậy chi phí quảng cáo so với tổng chi
còn ở mức khiêm tốn. Cụ thể là qua bảng 12 ta thấy năm 1998 về số tuyệt đối
chi quảng cáo là 36,666 triệu đồng. Nhưng đến năm 1999 thì lượng chi này đã
tăng lên 46,508 triệu đồng. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ chi lại có xu hướng giảm từ
2,17% xuống còn 1,95%. Điều này một phần là do ảnh hưởng của thuế VAT
nhưng công ty PTI cũng cần xem xét lại để nâng tỷ lệ chi quảng cáo lên một
tỷ lệ thích hợp nhằm tạo điều kiện cho việc giới thiệu rộng rãi sản phẩm của
công ty cho khách hàng biết. Khi đã có số đông công chúng biết về vai trò và

tác dụng của sản phẩm này thì đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử
chắc chắn sẽ tăng lên không chỉ ở trong cổ đông mà còn cả ngoài cổ đông
nữa.
- Cũng qua bảng 9 ta thấy chi tái bảo hiểm tăng về số tuyệt đối từ
785,7(triệu đồng) năm 1998 lên đến 996,6(triệu đồng) năm 1999. Điều này
chứng tỏ phí bảo hiểm thu được trên mỗi đơn của năm 1999 lớn hơn của năm
1998 nên phần chi phải tăng lên. Nhưng xét về tỉ lệ chi thì lại có phần giảm
xuống, năm 1998 tỉ lệ chi là 46,51% đến năm 1999 giảm xuống còn 41,66%.

53

- Chi quản lí cũng tăng về số tuyệt đối nhưng lại giảm về số tương đối.
Năm 1998 chi cho quản lí là 130,950(triệu đồng) sang đến năm 1999 chi quản
lí là 166,1(triệu đồng) .Tỉ lệ chi giảm từ 7,75% xuống 6,94%.
- Cuối cùng là chi thuế. Khoản chi này tăng cả về số tuyệt đối lẫn tỉ lệ
chi và đặc biệt là tăng rất nhanh gấp hơn 3 lần năm trước. Cụ thể là ở năm
1998 chi về thuế là 104,76 (triệu đồng) nhưng đến năm 1999 con số này tăng
lên 332,2 (triệu đồng). Về tỉ lệ chi cũng tăng từ 6,2% lên đến 13,89%. Nguyên
nhân là do năm 1998 vẫn áp dụng thuế doanh thu nên mức thuế thấp (4%
doanh thu phí) nhưng từ ngày 01/01 1999 Bộ tài chính đã ban hành luật thuế
giá trị gia tăng (VAT) với mức thuế cao hơnlà 10% tính trên doanh thu phí
điều này làm cho công ty gặp không ít khó khăn trong việc chi phí hợp lí .
(4).Xét về tỉ lệ tổng chi/ doanh thu:
Năm 1998 tỉ lệ tổng chi /doanh thu ở mức 64,49% sang đến năm 1999 tỉ
lệ này tăng lên 72%. Điều này là do áp dụng luật thuế mới, đồng thời là chi
bồi thường cũng tăng cao hơn năm 1998.
(5).Kết quả kinh doanh :
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty là tốt, nhìn vào bảng chỉ tiêu
doanh thu tăng dần năm 1998 là 2619(triệu đồng), năm 1999 là 3322(triệu đồng).
Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận năm 1999 tăng không lớn so với năm 1998

cụ thể là năm 1998 là 929,775 (triệu đồng) đến năm 1999 là 930,160 (triệu
đồng). Điều này có nguyên nhân trực tiếp từ việc chi thuế năm 1999 lớn hơn
nhiều so với chi thuế năm 1998 ( gấp 3,17 lần ).
(6).Hiệu quả kinh doanh :
Nhìn vào chỉ tiêu 6 ở bảng 9 ta thấy hiệu quả kinh doanh không được tốt
lắm và có xu hướng giảm.
Năm 1998: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 1,55đ doanh thu
Năm 1999: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 1,388đ doanh thu
Về lợi nhuận:

54

Năm 1998: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 0,55đ lợi nhuận
Năm 1999: Công ty bỏ ra 1 đồng chi phí thu được 0,388đ lợi nhuận
* Để hiểu được sâu sắc hơn do đâu mà công ty có được kết quả tốt cũng
như những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của mình ở nghiệp
vụ bảo hiểm TBĐT ta đi tìm nguyên nhân của nó :
Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên :
Chúng ta phải khẳng định rằng khai thác là khâu quan trọng hàng đầu
trong mọi loại hình bảo hiểm nói chung và bảo hiểm TBĐT nói riêng .Doanh
thu muốn đạt được ở mức cao tất yếu khai thác phải được nhiều bởi thế ta đi
tìm nguyên nhân cho doanh thu cao cũng chính là tìm nguyên nhân từ khâu
khai thác :
+Bảo hiểm TBĐT là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ và đầy triển vọng
trong tương lai nên các cán bộ nhân viên trong công ty tin tưởng vào sự phát
triển của lĩnh vực này từ đó tạo nên cho họ một động lực thúc đẩy họ hăng
say làm việc, nỗ lực phấn đấu vươn lên .Họ đã làm việc không kể ngày đêm
,đi khai thác vào mọi thời điểm các cán bộ nhân viên công ty luôn cố gắng
tìm ra những phương pháp tiếp cận, khai thác mới nhất để tăng thêm số khách
hàng cho mình.

+Công ty PTI nghiên cứu sản phẩm bảo hiểm TBĐT một cách kĩ lưỡng
có cơ sở khoa học đồng thời tiến hành đánh giá thị trường bảo hiểm TBĐT
theo tổng thể theo từng thành phố, tỉnh và khu vực từ đó nắm lấy thị trường,ở
chỗ nào có nhu cầu lớn nhất hiện tại, hoặc có tiềm năng lớn trong tương lai.
Đồng thời chủ động sáng tạo áp dụng nhiều phương pháp khác nhau và kịp
thời đúc kết kinh nghiệm để tìm ra phương pháp khai thác hợp lí nhất ,điều
này được thể hiện: Hàng tuần công ty luôn họp giao ban vào sáng thứ 2 để
thảo luận kiến nghị đưa ra những cách thức,phương pháp khai thác, tiếp cận
khách hàng phù hợp nhất.
+Công ty PTI đã tuyển chọn và đào tạo đượcmột đội ngũ nhân viên có
trình độ, năng lực hầu hết đã có kinh nghiệm thực tế trong nhiều lĩnh vực

×