Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Lãi suất tý giá hối đoái và sự quản lý lãi suất ở Việt Nam - 6 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.13 KB, 6 trang )


_ Trong giai đoạn đầu ( 8/2001), thực hiện chính sách tỷ giá thấp để
khuyến khích cho việc nhập khẩu các công nghệ sản xuất hiện đại, phát
triển các mặt hàng xuất khẩu .
_ Bên cạnh đó thực hiện chính sách nâng cao chi tiêu trong nước(kích
cầu) bằng hàng hoá do trong nuức sản xuất ra và hạn chế nhập khẩu hàng
tiêu dùng .
_ Khi nền kinh tế đ• vững mạnh, thoát khỏi sự lệ thuộc vào hàng hoá
nhập khẩu thì thực hiện chính sách tỷ giá cao để khuyến khích xuất khẩu.
Việc XK tăng lên sẽ hạn chế tiêu dùng trong nước vì giá cảc sẽ tăng lên
nhưng sẽ tạo ra sự cân bằng đối ngoại , cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế.
Hiện nay, Việt Nam đang duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của
nhà nước là phù hợp với tình hình đất nước , tuy nhiên ràng buộc lớn
nhất của nó là mức dự trữ ngoại tệ của Nhà Nước quá eo hẹp. Về dài hạn
nó sẽ tiếp tục hoàn thiện thêm nếu được tăng thêm tính linh hoạt, qua đó
qui luật cung – cầu phát huy tác dụng rõ nét hơn. Chính vì vậy, chúng ta
phải nhanh chóng đưa ra các giải phát nhằm góp phần thúc đẩy hoạt
động XK, tăng mức dự trữ ngoại tệ trong nước để từ đó Nhà nước có
thêm sức mạnh điều hành chính sách tỷ giá theo hướng tăng tính linh
hoạt và giảm bớt mức chênh lệch kinh niên giữa cung và cầu về ngoại tệ
trong nước.
3. Một số giải pháp:
-Thứ nhất, Chính phủ cần quan tâm sát sao và đầu tư mạnh cho
khâu nghiên cứu, tổ chức thị trường; tổ chức các ngành nghề XK thành

các hiệp hội; đào tạo cán bộ nghiên cứu có năng lực, có khả năng khai
thác và cung cấp thông tin thị trường, thậm chí có thể bán thông tin cho
các hiệp hội ngành XK. Một khi đ• tổ chức tốt các hiệp hội ngành sản
xuất và XK thì chi phí để mua những thông tin thị trường là thấp nếu tính
bình quân trên số thành viên của hiệp hội thay vì những tổn thất hiện tại


do quá thiếu thông tin. Song song với đó phải tổ chức thu mua giữ giá,
xây dựng kho b•i bảo quản hàng. Điều này là cực kỳ cần thiết cả về ngắn
và dài hạn vì đặc trưng của hàng hóa XK Việt Nam là hàng nông sản sơ
chế, khó bảo quản, dễ bị ép giá trong nhiều trường hợp. Đối với bên
ngoài, cần tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế theo nhóm mặt
hàng, như Tổ chức các nước XK cà phê, XK cao su hoặc phải có thoả
thuận trao đổi thông tin đa chiều để tăng uy tín quốc tế, tránh tình trạng
“vừa là kẻ phá, vừa là nạn nhân của đổ vỡ thị trường”. Ngoài ra, để hàng
hoá có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì phải không ngừng nâng
cao chất lượng, mẫu m•, chủng loại sản phẩm, giá cả rẻ , giữ uy tín trên
thị trường quốc tế. Nhóm biện pháp trên tuy không phải biện pháp về tỷ
giá, lại tốn nhiều chi phí nhưng nó giải quyết được tận gốc vấn đề của
hoạt động XK trong môi trường “nền Kinh tế thông tin” mở cửa. Một khi
hoạt động XK thoát khỏi vòng luẩn quẩn của tình trạng thiếu tổ chức như
hiện nay thì nguồn thu, và do đó dự trữ ngoại tệ sẽ không còn quá eo hẹp,
Chính phủ có đủ lực để thực thi những chính sách tỷ giá linh hoạt hơn.
-Thứ hai, Thực hiện chính sách đa ngoại tệ : Hiện nay, trên thị trường
, mặc dù USD có ưu thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác , song nếu trong
quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ duy nhất sẽ làm cho tỷ giá bị

ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả
USD trên thị trường thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá
giữa USD và VND, mà thông thường là ảnh hưởng bất lợi. Hiện nay, có
nhiều loại ngoại tệ có giá trị thanh toán quốc tế như: EURO(EMU),
JPY(Nhật), CAD( Canada), GBP( Bảng Anh) …Điều này tạo điều kiện
cho ta có thể thực hiên chính sách đa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế,
từ đó có thể lựa chọn những ngoại tệ tương đối ít biến động về tỷ giá
hoặc có quan hệ mua bán lớn để thực hiện các khoản thanh toán lớn.
-Thứ ba, cần tranh thủ sử dụng nguồn kiều hối chuyển về nước hàng
năm. Hiện nay có hơn 2,5 triệu kiều bào mỗi năm gửi về nước gần 2 tỷ

USD. Số ngoại tệ này do chưa quản lý tốt, là nguồn cung cho hoạt động
thị trường hối đoái ngầm, gây khó khăn cho Chính phủ. Có 2 hướng quản
lý có thể tiến hành song song:
a. Quy định đổi ngay ngoại tệ chuyển về cửa khẩu theo tỷ giá có ưu đ•i
đối với trường hợp không có dự án kinh doanh (chỉ để tiêu dùng). Thân
nhân của Việt kiều khi lĩnh tiền gửi về sẽ được nhận bằng VND theo tỷ
giá mua của NHTM ngày hôm đó cộng thêm tỷ lệ ưu đ•i 0,1% chẳng
hạn. Mục đích của biện pháp này : một là làm giảm cơn khát của NHTM
đối với ngoại tệ mua vào, từ đó có thể bán ra nhiều hơn, hai là Nhà Nước
qua đó tăng phần dự trữ ngoại tệ, ba là làm giảm đáng kể nguồn cung cho
thị trường tự do.
b. Khuyến khích bằng thuế thu nhập doanh nghiệp, đơn giản thủ tục đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh bằng vốn kiều hối. Chính sách khuyến
khích này đ• được thực hiện đối với các công ty có vốn đầu tư nước

ngoài thì cũng áp dụng được đối với công ty hoạt động kinh doanh bằng
vốn kiều hối. Thêm vào đó, cần khuyến khích động viên lòng yêu nước
của các Việt kiều để họ xoá bỏ mặc cảm đầu tư về trong nước.
-Thứ ba, đẩy mạnh và quản lý chặt hoạt động XK lao động, không để
tình trạng thiếu tổ chức (có cả hành vi lừa đảo) như hiện nay tiếp diễn.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lao động và chuyên gia Việt Nam làm
việc ở nước ngoài là hơn 300.000 người, hàng năm gửi về nước 1,5 tỷ
USD; riêng tiền ký kết hợp đồng Nhà nước đ• thu hơn 300 triệu USD. Có
thể nói đây là nguồn thu không nhỏ của Ngân sách, lại phù hợp với chủ
trương Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nước nhà bởi số lao động XK sau
một vài năm làm việc trở về sẽ mang theo trình độ kỹ năng lao động,
kinh nghiệm làm việc hiện đại để phục vụ đất nước. Vì vậy, hợp đồng
XK lao động cần nghiên cứu kỹ lưỡng, có sự bảo đảm an toàn cho người
lao động, không chỉ đưa họ đi mà còn tạo điều kiện việc làm ổn định cho
họ. Số ngoại tệ do nguồn này gửi về cũng có thể áp dụng biện pháp kết

hối ngay tại cửa khẩu với tỷ giá ưu đ•i như đối với nguồn kiều hối.
-Thứ tư, giữ nguyên tỷ lệ kết hối (30%) và biên độ dao động tỷ giá như
hiện nay (0,25%), đồng thời theo dõi, phân tích thường xuyên thông tin
thị trường ngoại hối trong và ngoài nước để điều chỉnh dần theo hướng
tự do hơn khi điều kiện dự trữ và các yếu tố khác cho phép.





Kết luận
Nến kinh tế Việt Nam đang chuyển mình nhanh chóng theo hướng nền
kinh tế hướng ngoại thông qua một loạt các chính sách khuyến khích đầu
tư nước ngoài cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua lại doanh nghiệp
trong nước ,chính sách hỗ trợ xuất khẩu…Các rào cản đối với sự di
chuyển vốn giữa Việt Nam và thế giới sẽ dần được xoá bỏ . Điều này sẽ
trở thành hiện thực vào thời điểm 2006 khi Việt Nam chính thức tham
gia khối thương mại tự do Asian .Do vậy, tỷ giá hối đoái đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong thanh toán quốc tế cũng như trong nhiều mặt của
đời sống Kinh tế - Xã hội.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những bước đi khá đúng đắn
trong việc thực hiện chính sách tỷ giá, góp phần không nhỏ vào thành tựu
tăng trưởng và ổn định Kinh tế. Tuy nhiên, khi thực tiễn thay đổi nhanh
chóng như hiện nay, không một chính sách nào có thể tồn tại m•i mà
không có những điểm bất cập. Vì vậy, các nhà kinh tế đ• dày công
nghiên cứu để đưa ra các kiến nghị khác nhau, nhằm xây dựng một chính
sách tỷ giá hối đoái hiệu quả cho nền Kinh tế đất nước.
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, người thực hiện không có tham vọng
gì hơn ngoài việc tham gia tìm hiểu ban đầu về chế độ tỷ giá hiện hành ở
Việt Nam, từ đó đưa ra một số ý kiến xây dựng nhằm góp phần nhỏ bé,

hoàn thiện thêm chính sách tỷ giá hối đoái cho phù hợp với tình hình đất
nước. Với những thành công ban đầu của hơn 10 năm qua và từ kinh
nghiệm của các nước đi trước, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng Việt
Nam sẽ thành công trong việc xác lập một chính sách tỷ giá linh hoạt,

phù hợp nhất, góp phần đưa đất nước tăng trưởng bền vững và nâng cao
vị thế trên trường thế giới./.
Tài liệu tham khảo
1. Frederic S.Mishkin, “Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường Tài chính”,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội - 2001.
2. Lê Vinh Danh , “ Tiền và hoạt động ngân hàng” ,NXB Chính trị quốc
gia ,1997
3. GS.TS Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân –Lê Nam Hải ( chuyên viên
kinh tế) “ Tiền tệ ,ngân hàng ,thị trường tài chính”, NXB Thống kê,
2001.
4. Học viện Ngân hàng, “Tài chính Quốc tế trong nền Kinh tế mở”,
2000.
5. Giáo trình môn “ Lý thuyết tài chính - tiền tệ “ NXB Thống kê ,
2001
6. Bài giảng môn Tài chính Quốc tế của TS. Nguyễn Văn Định,
ĐHKTQD.
7. Tạp chí “Kinh tế và Dự báo” - số tháng 3, 6/2001.
8. Tạp chí “Thị trường Tài chính Tiền tệ” - số tháng 1,2,3/2002.
9. Tạp chí “Nghiên cứu Kinh tế” - các số từ 271 (12/2000) đến 292
(9/2002)
10. Tạp chí “ Ngân hàng”- số 5 năm 2001, số 10 năm 2001.
11. “Niên giám Thống kê 2000, 2001”, NXB Thống kê Hà Nội, 2001,
2002.

×