Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Lãi suất tý giá hối đoái và sự quản lý lãi suất ở Việt Nam - 5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.08 KB, 9 trang )


năm 1997 đôi khi quá thụ động. Sự phá giá mạnh của đồng NDT vào
cuối năm 1993 là một sụ kiịen không có tác động trực tiếp đến ngoại
thương của Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nhưng có thể
thấy rằng trong suốt những năm 1993 đến 1995, hoàn toàn không có bất
kỳ một điều chỉnh nào trong chính sách tỷ giá hối đoái nhằm phản ánh
hay đối phó tình hình này (điều này phản ánh tính tự chủ trong chính
sách tiền tệ nói chung và trong đó có chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng
là chưa cao). Tỷ giá tính ché trực tiếp giữa NDT của Trung Quốc và Việt
Nam cũng như hoạt động buôn bán tiểu ngạch ở các tỉnh biên giới phỉa
bắc hầu như vẫn được "thả nổi".
2.3. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999
Ngày 2/7/1997 Thái lan phải "thả nổi" TGHĐ kết thúc gần 14 năm duy
trì một chế độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ ra cuộc khủng
hoảng tài chính Đông nam á với một ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi
toàn thế giới. Việt nam cũng không thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng.
Theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu cũng như của các cơ quan
thì cuộc khủng hoảng này hoàn toàn có ảnh hưởng ít nhiều đối với nền
kinh tế Việt Nam. Xét thêm góc độ vĩ mô, sự tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính Đông nam á đối với nền kinh tế Việt Nam tạo nên một
cơn sốc rộng khắp thể hiện trên một số mặt sau:
Thứ nhất, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng
- Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ
- Tác động xấu đến hoạt động giai dịch ngoại tệ
- Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp

- Gây sức ép đối với l•i suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất
ổn định của hệ thống Ngân hàng.
-Tác động đến xuất khẩu: tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang
khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch,
riêng các nước ASIAN chiếm 23% tổng kim ngạch trước khi sảy ra cuộc


khủng hoảng nên cuộc khủng hoảng tất yếu sẽ làm giảm xuất khẩu của
Việt Nam.
- Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của đồng tiền trong khu vực
đ• kích thích gia tăng nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu tiểu ngạch từ
Thái lan và hàng trung chuyển từ Campuchia, Lào và Việt Nam. Thực tế
cho thấy, đến cuối năm 1997, hàng loạt các báo đi đều lên tiếng về tình
trạng nhập lậu hàng gia tăng mạnh ở các tỉnh biên giới tây nam.
Thứ hai , đối với lĩnh vực đầu tư:
Do tỷ giá tăng, l•i suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp
cùng với dự đoán không tốt trong tương lai tất yếu sẽ là các doanh
nghiệp hạn chế đầu tư và Ngân hàng cũng rất dè dặt khi cho vay. Đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam đ• có xu hướng giảm ngay từ trước khi nổ ra
cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng, nhiều dự án đầu tư dở
dang bị đình lại, nhiều phương án đầu tư mới tạm ho•n và điều này cũng
thật rễ hiểu khi mà các quốc gia bị khủng hoảng nặng nề lại là những
quốc gia đang dẫn đầu danh sách những quốc gia đầu tư nhiều nhất vào
Việt Nam.
Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nước.

Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giảm
của thị trường tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đ• làm nhiều doanh
nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách. Bên
cạnh đó, sự xa sụt của nền kinh tế tất yếu đòi hỏi phải ra tăng một số
khoản chi. Báo cáo của Ngân hàng nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín
dụng Ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đ• chỉ rõ " Thu ngân sách 6
tháng thực hiện đạt 30% so với kế hoạch năm. Chi ngân sách khó khăn
hơn mức bội thu bội chi có xu hướng gia tăng".
Thứ tư , Tăng trưởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nước ngoài.
Khủng hoảng khu vực đ• gián tiếp ảnh hưởng đến cán cân v•ng lai,
đến đầu tư của nước ngoài.Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển kinh

tế nói chung (tốc độ tăng trưởng 5,8% trong năm 1998 là mức tăng
trưởng thấp nhất kể từ năm 1989). Nề kinh tế khó khăn sẽ tác động suy
giảm đến tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu dùng của cư dân. thị trường
suy yếu một phần sẽ tác động ngay lập tức đến các Ngân hàng thương
mại. Dự trữ quốc gia tất yếu sẽ phải chịu sức ép suy giảm một phần do
nguồn cung ngoại tệ giảm bớt, một phần do đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
thiết yêú cho nền kinh tế và hỗc trọ cho đồng Việt Nam vào những lúc
cao điểm. Trong bối cảnh đó, chính sách TGHĐ của Việt Nam về cơ bản
không có gì khác so với giai đoạn từ năm 1993 đến khi nổ ra cuộc khủng
hoảng tài chính Đông nam á. Nhưng là giai đoạn với những điều chỉnh
nhỏ, liên tục trong chính sách TGHĐ, nói chung và công tác quản lý
ngoại hối nói riêng nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng
hoangr. Nếu trong giai đoạn từ cuối năm 1992 dến tháng 7 năm 1997 chỉ

có một lần duy nhất điều chỉnh biên độ giao dịch từ 1% đến 5% vào ngày
27/2/2997 thì từ tháng 7/ 1997 đến đàu năm 1999 có nhiều lần thay đổi
với các mốc chính như sau:
Ngày 13/10/1997 thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng
biên độ giao dịch nên mức 10%. Ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nước
quyết định nâmg tỷ giá chính thức từ 1USD = 11175VND nên mức
1USD = 11800VND, tăng 5,6%, ngày 7/8/1998, Ngân hàng nhà nước
quyết định thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn 7% đồng thời nâng tỷ giá
chính thức lên 1USD = 12998 là 1USD = 12992 VND, ngày 6/11/98 là
1USD = 12989VND ngày 26/11/98 là 1USD = 12987VND… cho đến
ngày 15/1/99 thì tỷ giá chính thức chỉ còm ở mức 1USD = 12980VND .
Việc Ngân hàng nhà nước điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức cùng
biên độ trong giai đoạn này có nhiều lý do, do gạt bỏ những lý do khác
và chỉ đứng trên góc độ lựa chọn chế độ tỷ giá thì có thể thấy. Nếu phân
loại chế độ tỷ giá gồm 3 chế độ chính là chế độ tỷ giá cố định, chế độ tỷ
giá thả nổi thuần tuý và nằm giữa hai thái cực này gọi chung là chế độ tỷ

giá bán thẩ nổi hay thả nổ có quản lý, thì việc có nhiều những điều chỉnh
trong tỷ giá chính thức cùng biên độ tuy không làm thay đổi về cơ bản
mà hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về lựa chọn chế độ tỷ giá: "Một chế
độ tỷ giá thả nổi sẽ góp phần hạn chế những cơn sốc và xuất phát từ thị
trường thế giới (đơn khủng hoàngr tài chính Đông Nam á).
2.4. Giai đoạn 26/2/1999 đến nay.
Trước ngày 26/2/99 TGHĐ được ngân hàng Nhà nước công bố hàng
ngày và trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng được phép mua bán trong một

biên độ nhất định. Ngoài ra còn tồn tại một loại tỷ giá là tỷ giá chợ đen
tạo ra một hệ thống đa tỷ giá phức tạp tỷ giá chính thức của NHNN công
bố không được xác định theo tín hiệu thị trường nên không có ý nghĩa
kinh tế. Tuy vậy khi có sự thay đổi của tỷ giá vẫn có những tác động đến
nền kinh tế.
Đến nay khi nền kinh tế vận động mạnh theo cơ chế thị trường thì việc
xác định tỷ giá như trên không còn phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị
trường và thông lệ quốc tế. Từ 26/2/99 TGHĐ chính thức công bố hàng
ngày được xác định trên cơ sở bình quân mua bán thực tế trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó, đồng thời
biên độ giao dịch cũng được rút xuống là  0,1%.
(Quyết định 64/1999 QĐ - NHNN7 và 65/1999/QĐ-NHNN7).
Có thể nói đây là một bước đổi mới rất quan trọng không những trong
quan niệm, trong tư duy mà cả trong thực tiễn quản lý, với cơ chế này
làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường vận động một cách khách quan
phản ảnh đúng hơn các quan hệ cung cầu về ngoại tệ ở trên thị trường,
đồng thời cũng phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên
thế giới.
Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá NHNN Việt Nam
cũng đã có quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất (QĐ số
241/2000/QD NHNN1 ngày 2/8/2000 bằng việc bãi bỏ cơ chế điều hành

lãi suất cơ bản thay bằng và tổ chức tài chính được quyền ấn định lãi suất
cho vay đối với khách hàng nhưng không được vượt qua mức lãi suất cơ
bản và biên độ quy định trong từng thời kì.





Chương 3
Một số giải pháp và kiến nghị
1. Một số nhận định chung:
Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay tuy còn một số hạn chế nhưng rõ
ràng đ• đem lại nhiều kết quả tích cực cho nền kinh tế phát triển theo
hướng mở cửa hội nhập. Xét trên toàn diện các lĩnh vực, việc vận hành
chính sách tỷ giá của Chính phủ đ• được đánh giá cao bởi các ý kiến
trong và ngoài nước. Điều đó đặc biệt có ý nghĩa giữa bối cảnh nền Kinh
tế thế giới đầy khó khăn, bởi trong khi nhiều quốc gia lớn phải vật lộn
với thực trạng và nguy cơ suy thoái thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng
trưởng khá và ổn định. Trong một hoàn cảnh như vậy thì việc phá giá
mạnh đồng nội tệ để chạy theo bất kỳ một mục đích nào cũng là điều rất
đáng cân nhắc.
Các nguyên nhân làm tăng tỷ giá thời gian qua là :
- Thứ nhất, đó là hậu quả của nhiều năm điều hành chính sách tỷ
giá tách rời quy luật thị trường trong một thời kỳ đóng cửa quá dài. Do
đó đồng nội tệ bị đánh giá cao hơn giá trị thực của nó.
- Thứ hai, sự mất cân đối giữa cung - cầu về ngoại tệ do giá USD tăng
phổ biến trên thị trường quốc tế (cho đến cuối năm 2001) gây sức ép

mạnh mẽ lên tỷ giá trong nước ; hoạt động XK bị ảnh hưởng bởi sự suy
thoái chung của toàn cầu.

- Thứ ba, tình hình thâm hụt cán cân thanh toán chưa được cải
thiện: XK gặp nhiều khó khăn về thị trường . Nhu cầu nhập khẩu máy
móc thiết bị phục vụ sản xuất là rất cao.
- Thứ tư, cơ chế quản lý nền Kinh tế còn nhiều bất cập: Chính phủ
chưa làm tốt công tác hướng dẫn thị trường; dự trữ ngoại tệ quá mỏng,
chưa đủ để điều tiết thị trường ngoại hối trong nước. Nước ta có điểm
xuất phát thấp , tụt hậu nhiều năm trên con đường hội nhập nên những
khó khăn khi thực hiện mở cửa nền kinh tế không phải chỉ là vấn đề của
riêng tỷ giá, thế và lực của ta còn rất yếu.
- Thứ năm, đô la hoá ngày càng diễn biến phức tạp do nhiều nguyên
nhân , đặc biệt là tâm lý găm giữ đồng USD chờ tiếp tục lên giá của dân
chúng và tâm lý sợ rủi ro tỷ giá, đây là thói quen có tính chất lịch sử do
nhiều năm tiền VND liên tục mất giá để lại.
Do vậy, việc phá giá Đồng Việt Nam không phải là phương thuốc hữu
hiệu cho sự phát triển chung của nền Kinh tế vì một số lý do sau:
- Một là, phá giá đồng Việt Nam sẽ không cải thiện được cán cân
thanh toán . Do chế độ tỷ giá hiện nay không còn là trở ngại chính của
XK, các nhà xuất khẩu cần có những cải tiến trong chất lượng sản phẩm,
mẫu m•, hạ giá thành và xâm chiếm thị trường tiêu thụ … trước khi đòi
hỏi ở cơ chế tỷ giá . Vì cơ chế tỷ giá chỉ phát huy tác dụng tích cực khi
có hàng loạt các yếu tố đó hỗ trợ. Hơn thế, phá giá mạnh lại gây khó
khăn cho các doanh nghiệp trong nước – vốn trong tình trạng tài chính

yếu kém lại phải nhập khẩu nhiều máy móc, thiết bị để hiện đại hoá dây
truyền sản xuất. Nói cách khác, phá giá thì “XK lợi bất, NK đ• cập hại “
- Hai là, các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, theo một cơ chế tương
tự, sẽ tăng lên khi quy đổi ra nội tệ nếu tiến hành phá giá.
- Ba là, phá giá mạnh trong điều kiện chưa có sức ép thực sự dữ dội từ
phía thị trường sẽ gây tâm lý bất ổn và các xáo trộn toàn diện về Kinh tế.
- Bốn là, chính sách phá giá nhằm chuyển dịch cơ cấu nền Kinh

tế, nâng cao tính cạnh tranh chỉ thực sự có hiệu quả khi đi cùng hàng loạt
điều kiện khác như: Tư duy đúng đắn về chính sách thương mại hướng
về XK; hiểu rõ và tận dụng lợi thế so sánh; thị trường tiêu thụ sản phẩm
trong nước và quốc tế rộng mở; sự phối hợp đồng bộ với các chính sách
vĩ mô khác Nếu không, việc phá giá có thể gây nhiều hậu quả khôn
lường.
Trước những nguyên nhân và hiện trạng phân tích như trên, chính
sách tỷ giá hối đoái hiện hành về cơ bản là hợp lý. Tỷ giá có tính chất
“bò trườn”, thực chất có thể coi là đang phá giá Đồng Việt Nam dần dần
theo diễn biến thị trường mà không gây nên những cú sốc về tỷ giá. Đối
với một nền Kinh tế mới hội nhập như Việt Nam thì một chính sách thì
chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước là phù hợp, vì
những điều kiện để áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi chưa xuất hiện đầy
đủ,trong đó có các yếu tố sau.
+ Các doanh nghiệp chưa thích ứng với sự biến động thường xuyên của
thị trường , năng lực quản lý tài chính chưa tốt.
+ Hệ thống NHVN đang trong quá trình đổi mới còn nhiều yếu kém.

+ Thị trường hối đoái đang trong giai đoạn sơ khai , dự trữ ngoại tệ Nhà
nước còn thấp.
+ NHNN chưa có sự phối hợp chặt chẽ các chính sách và các biệp pháp
điều hoà cung ứng tiền tệ trong nước , các cá nhân, tổ chức thanh toán
qua NH còn ở mức độ thấp.
+ Việc điều chỉnh tỷ giá đúng đắn và hiệu quả của NHNN còn phụ thuộc
rát lớn vào chính sách huy động và sử dụng vốn, nhất là vốn nước ngoài.
Tuy nhiên, xét về lâu dài, chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà
Nước phải được giảm dần theo thời gian, để tiến tới áp dụng một chế độ
tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
2. Định hướng về điều hành chính sách tỷ giá của NHNNVN.
Như ta đ• biết, một chế độ tỷ giá cố định sẽ tốt hơn cho các mục

tiêu ổn định giá cả, thúc đẩy hoạt động XNK (mặc dù không đồng nghĩa
với việc thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài và cân bằng Ngoại thương).
Trong khi đó, một chế độ tỷ giá thả nổi dù có khả năng đương đầu với
những cú sốc có nguồn gốc từ thị trường hàng hóa, giúp cho cân bằng
Ngoại thương lại có thể là nguồn gốc của những cơn siêu lạm phát và
tình trạng tăng nợ nước ngoài. Mỗi chế độ trên đều có những ưu, nhược
điểm riêng mà thực tiễn đ• chỉ ra rằng: nếu chỉ dựa vào một trong hai thì
sớm hay muộn, nền Kinh tế cũng phải trả một giá đắt.
Từ sự phân tích trên ,chúng ta có thể rút ra định hướng lâu dài cho
chính sách tỷ giá của Việt Nam là :

×