Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quá trình hình thành một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở việt nam p2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.54 KB, 12 trang )


13

quyền, mà cả các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế nhằm thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước
trong điều kiện kinh tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi,
cán cân thanh toán quốc tế, thì không phải chỉ có nợ chính phủ
mới nằm trong đó mà ngay cả nợ của các doanh nghiệp tư nhân
các của nước cũng phải đưa vào. Bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử
dụng thì vẫn là cho cả nền kinh tế và khi trả, dù ai trả cũng phải
lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó liên quan đến lợi ích quốc
gia, trực tiếp tác dộng đến sự cân bằng của cán cân thanh toán. là
quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so với GDP, trong tương lai
còn phải vay và đồng thời phải trả nợ đến hạn vì vậy với việc hình
thành chiến lược vay và trả nợ có ý nghĩa chiến lược to lớn.

1.3 Thực trạng tác động cuả tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu
chính phủ.
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác
dụng điều chỉnh lãi suất. Trong nền kinh tế thị trường khi đồng
nội tệ mất giá khối lượng nội tệ cung ứng ngoài thị trường lớn đòi
hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trường hợp này làm tăng
chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội
tệ lên giá nhà nước phải điều chỉnh giảm mức lãi suất, điều này sẽ
giảm chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ, nếu
không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất kihn doanh
sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc
mua trái phiếu chính phủ để hưởng lãi suất cao. Điều này sẽ tác
động xấu đến sản xuất-kinh doanh trong khi đó ngân sách phải
tiếp tụcthanh toán lãi suất về huy động tiền gửi. Kinh nghiệm của
một số nước châu á (như Malaixia, Thái lan, Indonexia) cho thấy


việc sử lý hài hoà phối hợp điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối
đã làm cho tỷ giá giữ được biên độ ổn định và tiền tệ không có
biến động mạnh.
Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang
đẩy mạnh xu hướng nâng cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng
lãi suất tiền vay bằng ngoại tệ USD, và do đó sẽ tác động trực tiếp
đến các khoản vay nợ của Việt nam. Với diễn biến này đòi hỏi

14

chúng ta cần có sách lược chọn đồng tiền với mức lái suất thích
hợp, nhằm đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay đạt hiệu quả.
Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng
Việt nam cho thấy, tình hình taì chính quốc gia (đặc biệt là ngân
sách nhà nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện chứng
qua lại hết sức chặt chẽ, một mặt tình hình tài chính (mà biểu hiện
tập trung là ngân sách nhà nước) là một nhân tố hàng đầu quyết
định đến sự lựa chọn tỷ giá, phương án điều chỉnh tỷ giá, mặt
khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh hưởng hết sức
mạnh mẽ, toàn diện đến quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua
nhiều kênh, dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì
vậy khi đặt vấn đề lựa cọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ
giá sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu như không đề cập, phân tích
thực trạng tài chính hiện hành của quốc gia.
1.4 Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối
ngoại.
Các nước đang phát triển thường thiết ké chính sách tỷ giá
hối đoái nhằm duy trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với
vị thế cán cân thanh toán quốc tế lâu bền. Bằng cách tăng giá các
hàng thương mại hoá được so với các hàng hoá không thương mại

hoá được; sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có lợi
cho các cho các hàng hoá không thương mại hoá được, và cung
tổng thể có lợi cho các hàng hoá thương mại hoá được, và do đó
giảm bội dư cầu đối với hàng hoá thương mại hoá được (tức là
cải thiện được vị thế của cán cân vãng lai). Ngoài tác dộng của
chính sách chuyển đổi chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu tổng thể
thông qua ảnh hưởng của khối lượng tài sản, một sự tăng giá nội
địa sẽ làm cho sự phá giá đồng tiền nội địa tháp hơn giá trị thực
của tài sản tài chính và giảm hấp thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đói với việc duy trì
sức cạnh tranh đối với bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt
ra khỏi điểm cân bằng của nó. Bởi vì điểm cân bằng này được xác
địng nội sinh, chính sách tỷ giá hối đoái cần lưu ý đến các tác
động của các cơn sốc khác nhau lên điểm cân bằng của tỷ giá
thực. Phần này đề cập đến các tiếp cận khác nhau trong việc xác

15

định điểm cân bằng tỷ giá thực và nghiên cứu tác dộng của các
cơn sốc bên trong và bên ngoaig lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ
tập trung vào chính sách cụ thể nhằm duy trì sức cạnh tranh trong
quá trình điều chỉnh.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng:
Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực
"cân bằng". Tiếp cận đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái
niệm tỷ giá theo sức mua so sánh. Nguyên lý trung tâm của tỷ giá
so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng tỷ lệ với các mức giá tương
đối giữa một nước với đối tác ngoại thương của mình, tức là đối
với sức mua so sánh giữa các đồng tiền các quốc gia. Như vậy tỷ
giá sức mua so sánh được coi là chỉ số thích hợp cho cân bằng tỷ

giá giưã các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay đổi
của tỷ giá danh nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh
sức mua bao gồm việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện hữu để tính
mặt bằng giá tương đối theo các đại lượng tiền tệ thông dụng. Bất
cứ sự sai lệch nào của tỷ giá thực so với giá trị gốc của nó sẽ được
coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so sánh sức
mua cân bằng.
Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối
đoái thực như là giá so sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và
hàng hoá không mậu dịch hoá được, nó đưa ra thước đo các động
lực quyết định sự phân phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng yếu
này của nền kinh tế: nếu giá nội địa của hàng hoá thương mại hoa
so với hàng hoá không thương mại hoá được thì nguồn lực sẽ
được phân phối lại sang khu vực hàng hoá thương mại hoá và cán
cân ngoại thương sẽ được cải thiện. Theo nghĩa đó, thì điểm cân
bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá
thương mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng
thời sự cân bằng nội và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là
thị trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên
tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai được tài
trợ một cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm
tànglên quan đến biến động chỉ số và sức cạnh tranh với bên

16

ngoài. Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay đổi chỉ số tỷ giá
thực quan được có thể là biểu hiện của sự thay đổi điểm cân bằng
của tỷ giá thực do các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài gây
ra (ví dụ: sự tác động cảu chênh lệch mức tăng năng suất, thay đổi

điều kiện ngoại thương, cải cách thuế quan, thay đổi trong điều
hành ngân sách chính phủ, sự tăng lên của lãi suất thực quốc tế)
lên cân bằng của tỷ giá thực.
Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có
tác động quan trọng đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu
năng suất lao động tăng nhanh hơn trong khu vực hàng hoá
thương mại hoá so với khu vực hàng hoá không thương mại hoá,
thì giá so sánh giữa hàng hoá không thương mại hoá sẽ tăng do sự
tăng đồng nhất của tiền lương trong cả hai khu vực. Với giá hàng
hoá thương mại hoá thị trường quốc tế quy định thì tỷ giá hối đoái
thực cân bằng sẽ giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nước có tốc
độ tăng năng suất thấp các nước đang phát triển thường chịu các
cơn sốc về điều kiện ngoại thương. Giả sử điều kiện ngoại thương
xấu đi vì sự giảm giá tương đối của hàng xuất khẩu, sự xấu đi này
tạo nên dư thừa cung đối với hàng hoá không thương mại hoá và
dư thừa cầu đối với hàng hoá thương mại hoá, làm cho cán cân
vãng lai xấu đi. Mất cân bằng cán cân vãng lai được điều chỉnh lại
qua việc giảm giá tương đối của hàng hoá không thương mại hoá-
tức là tăng tỷ giá thực và dịch chuyển cung nội địa từ hàng hoá
không thương mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu.
Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy:
giảm thuế nhập khẩu thường là tương đương với tăng tỷ giá thực
cânbằng. về phương diện định tính thì tác động của tự do hoá
nhập khẩu cũng giống như việc cải thiện điều kiện ngoại thương
(do giảm giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ giảm giá
tương đối của hàng nhập khẩu, tạo nên sự dư thừa cầu đối với
hàng hoá này, và dư thừa cung đối với hàng hoá xuất khẩu. để
đưa về cân bằng thì giá tương đối của hàng hoá không thương mại
hoá sẽ giảm. Như vậy phản ứng đối với việc giảm thuế nhập khẩu
là tỷ giá hối đoái thực sẽ tăng lên.

Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp
ngân sách, ngay cả khi thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự

17

thay đổi trong cơ cấu thu chi ngân sách cũng làm cho tỷ giá thực
cân bằng thay đổi, Ví dụ: nếu chính phủ cho hướng thành phần
chi tiêu sang hàng hoá thương mại hoá sẽ giảm và tỷ giá thực sẽ
tăng. Cũng như vậy, một sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ tác dộng tới tỷ
giá thực cân bằng bằng cách gây nên sự dịch chuyển của hành vi
đầu tư-tiết kiệm của nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp
của biện pháp ngân sách sẽ cho cùng một kết quả cân banừg ngân
sách tổng thể, nhưng với mỗi sự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực
cân bằng. Vì vậy điểm cân bằng của tỷ giá hối đoái thực không
chỉ định do vị thế ngân sách quy định, mà còn do cơ cấu chi và
thu của chính phủ quy định.
Một sự tăng lên lãi xuất quốc tế sẽ tác động đến điểm cân
bằng của tỷ giá hối đoái thực thông qua hai kênh: thứ nhất, dưới
chế độ tỷ giá cố định thì lãi xuất trong nước tăng lên để giữ được
mức so sánh với lãi xuất quốc tế, do đó làm giảm chênh lệch giữa
đầu tư và tiết kiệm. Một sự cải thiện cán cân vãng lai như vậy sẽ
gây nên việc giảm tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ thuộc vào
việc nước đó là chủ nợ hay con nợ ròng, một sự cải thiện hoặc
xấu đi phản ánh sự thay đổi tương ứng cảu sự thay đổi vị thế
chuyển giao các nhân tố thu nhập, tác động này sẽ thúc đẩy thêm
việc giảm tỷ giá thực cân bằng là không rõ ràng, nếu một nước là
con nợ lớn. Tác động của lãi xuất quốc tế cao hơn cũng phụ thuộc
vào phản ứng ngân sách của chính phủ. Nếu chính phủ làm trung
hoà tác động của ngân sách lên sự thay đổi lãi xuất bằng cách
giảm chi tiêu hàng hoá thương mại hoá, thì tỷ giá thực cân bằng

sẽ có xu hướng giảm trong dài hạn. mặt khác, tỷ giá thực cân
bằng sẽ tăng nếu việc trả lãi xuất được tài trợ bằng cách tăng thuế,
hoặc nếu kèm theo việc giảm chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá
không thương mại hoá.
Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát:
Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân
bằng vì một số các cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của
viêvj xấu đi sức cạnh tranh đối với bên ngoài ở hầu hết các nước
đang phát triển là tỷ lệ lạm phát nội địa cao kèm theo việc duy trì
chế độ tỷ giá tỷ giá danh nghĩa cố định. Các tiếp cận để ngăn

18

ngừa sự xấu đi của sức cạnh tranh quốc tế là thực hiện quy tắc tỷ
giá thực.
Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện
mất cân đối lớn và lâu dài của các giá cả tương đối và do đó tránh
được mất cân bằng ngoại, bằng cách cho tỷ giá danh nghĩa được
điều chỉnh thường xuyên và theo liều lượng tương đối nhỏ. Người
ta lập luận rằng: tỷ giá hối đoái thực tế có thể giữ được ở mức
đúng đắn, không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả cho nền kinh
tế, và do đó che lấp được vấn đề phá giá có thể nổi lên trên chiến
trường chính trị. Hơn thế nữa, người ta còn khẳng định quy tắc tỷ
giá thực cung cấp một mức cho dự đoán. bởi vì nó cung cấp cho
những người tham gia thị trường thông tin bổ ích về chiều hướng
có thể xảy ra các giá tương đối và do đó tránh được các quyết
định sản xuất dựa trên các dự đoán mong đợi sai lệch.
Tuy vậy, việc chấp nhận quy tắc tỷ giá thực cũng gây ra một
số vấn đề như: xác định điểm cân bằng của tỷ giá thực là không
dễ dàng về lý thuyết, chứ chưa nói về mặt thực tiễn và một số khó

khăn nghiêm trọng có thể phải tính đến nếu đích tỷ gía đặt sai. Vì
vậy, trong khi phát biểu quy tắc tỷ giá thực thf phải cho phép có
một độ sai số so với điểm cân bằng của tỷ giá thực do các cơn sốc
bên ngoài hoặc trong nước gây ra. Nếu cơn sốc là tạm thời, thì có
thể kiên trì quy tắc tỷ giá thực. Nếu cớn sốc là lâu dài thì sự sai
biệt lớn của tỷ giá thực so với điểm cân bằng có thể làm giảm sức
cạnh tranh quốc tế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy: các quy tắc tỷ giá thực có
thể tạo nên sự không an tâm, đối với hệ quả cân bằng vĩ mô, dù
nó có tác động tốt về mặt cân bằng ngoại. Việc thực hiện đích tỷ
giá thực, tức là buộc phải theo đuổi đích phần thực mà lại sử dụng
các công cụ đại lượng danh nghĩa với giá cả nội địa. Vì vậy các
cơn sốc đối với lạm phát trong nước có thể mang tính chất lâu dài,
và trong một số trường hợp có thể dẫn đến lạm phát, về phía cạnh
khác, trong nền kinh tế nhỏ, cung tiền tệ có thể bị gia tăng do
nguồn bên ngoài tăng lên, thì một sự bùng nổ giá cũng có thể xảy
ra ngay cả khi chính sách tín dụng không bành chướng.

19

Chính sách hỗ trợ đối với các biến động của giá thông qua
điều chỉnh tiền tệ và tỷ giá sẽ tác động đến quá trình hình thành
tiền lương trong nền kinh tế. Theo chính sách đó thì người lao
động sẽ không quan tâm nhiều đến tác động lên công ăn việc làm
của việc định ra tiền lương danh nghĩa cao hơn, vì các công ty có
đủ khả năngchuyển chi phí tiền lương cao hơn sang giá cao hơn,
vì vậy sự tăng lương sẽ phản ánh đầy đủ trong tiền lương và tăng
giá cả tiếp tục theo đó. Tác động lên tổng sản phẩm của các chính
sách hỗ trợ tài chính và tỷ giá hối đoái sẽ phụ thu vào nguồn gây
nên biến động. Nếu cơn sốt cung thống trị, thì biến động của tổng

sản phẩm sẽ tăng lên do chỉ số hoá đầy đủ tỷ giá hối đoái. Ngược
lại, nếu cơn sốt cầu thóng trị thì các chính sách hỗ trợ sẽ làm ổn
định tổng sản phẩm.
Các nghiên cứu về hệ quả của quy tắc tỷ giá thực voà ổn
định giá chỉ mới bắt đầu gần đây và có ít. Ađam và Gros(1966)
nghiên cứu vấn đề bằng cách sử dụng một số mô hình phân tíc
đơn giản với các giả thiết khác nhau liên quan đến cơ cấu hàng
hoá, tính cứng nhắc của giá lương, độ tự do lưu chuyển vốn. Họ
kết luận rằng: chính sách tiền tệ có thể mất khả năng kiểm soát
lạm phát nếu đặt tỷ giá danh nghĩa theo quy tắc tỷ giá thực và nếu
sau đó lại tìm cách kiểm soát lạm phát, thì sẽ mất khả năng kiểm
soát diễn biễn kinh tế vĩ mô khác, họ cũng lập luận rằng: nếu tỷ
giá hối đoái thực nâng quá mức so với điểm cân bằng thì lạm phát
chắc chắn sẽ cao hơn.
Hoạt động của quy tắc tỷ giá thực và chính sách ngân sách
liên quan chặt chẽ với nhau Lizondc(1989) đưa ra lược đồ mối
quan hệ giưã in tiền do thiếu hụt ngân sách và tốc độ phá giá tỷ
giá. Trong đó, giá trị cân bằng lâu bền của tỷ giá thực là hàm
không chỉ biến thực nêu trên mà còn của tỷ lệ lamj phát trong
nước. Đại lượng sau quyết định tổng thu được của chính phủ
thông qua thuế lạm phát, đếnlượt nó lại tác động lên giá trị tài sản
của tư nhân và chi tiêu trong dài hạn, và do đó lên điểm cân bằng
của tỷ giá thực. Mỗi một đích tỷ giá thực gây ra một tỷ lệ lạm
phát nội địa về dài hạn, khi các điều kiện khác không thay đổi.
Bên cạnh đó cần lưu ý không phải tất cả các đích tỷ giá thực là

20

khả thi và không phải tất cả các quy tắc tỷ giá đều đưa nền kinh tế
đến đích, ngay như nếu đích đó là khả thi.

Kinh nghiệm các nước lạm phát cao đã làm tăng sự phản đối
việc chấp nhận các quy tắc tỷ giá thực. Nhiều nước trên đã trải
qua tình trạng tỷ lệ lạm phát cao trong thập kỷ trước mà đặc trưng
"mặt bằng cao". Lạm phát nhảy từng bước đến các thời kỳ lạm
phát cao hơn nhưng lại tương đối ổn định. Trong một số trường
hợp thì bước nhảy như vậy liên quan đến phá giá từng đợt, tiếp
theo là "cố định" dựa vào các quy tắc tỷ giá so sánh sức mua.
Trong các nỗ lực lớn hơn, gần đây họ cố định tỷ giá danh nghĩa
để cung cấp một mốc neo danh nghĩa. Điều này cũng không kết
luận rằng: gắn cố định dựa trên cơ sở tỷ giá so sánh sức mua là
gây nên lạm phát cao, nhưngnthực tiễn cho thấy nguy cơ ngày
càng cao.
Tuy vậy, cũng cần nhận thấy một số lợi thế của quy tắc tỷ
giá thực, ví dụ: tỷ giá thực sẽ không cho phép chênh lệch xa điểm
cân bằng, vì vậy không phải lo lắng trước sự mất ổn định của giá
nội địa.
Tóm lại, một khi đích mục tiêu đặt ra đối với tỷ giá thực vẫn
còn đúng, thì tiềm năng gây lạm phát do sử dụng đích mục tiêu tỷ
giá thực gây ra có thể được kìm hãm bằng cách sử dụng các chính
sách ngân sách và tiền tệ thắt chặt, tiếp cận này sẽ ngăn ngừa sự
xuất hiện biến động gây mất ổn định của giá cả, ngay cả khi nếu
tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh để duy trì sức cạnh tranh quốc
tế. Khi không biết chắc chắn giá trị cân bằng của tỷ giá thực thì
không nên quá chú trọng vào việc đặt ra đích mục tiêu tỷ giá thực,
ngya cả khi nếu các chính sách ngân sách và tiền tệ được sử dụng
một cách thận trọng. Gánh nặng của điều chỉnh ít nhất là một
phần do các chính sách tài chính chịu, hơn là hoàn toàn dồn cho
điều chỉnh tỷ giá. Theo nghĩa đó thì cần phải chú ý rằng các chính
sách như vậy bản thân chúng có thể chịu tác động bởi chế độ tỷ
giá hối đoái mà chính phủ đưa ra.

Để phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta
đưa ra khái niệm khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh =
ePo/P

21

trong đó: Po: giá sản phẩm ngoài tính theo gía thi trường
nước ngoài.
P: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính
theo đồng nội tệ.
e:tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tính theo
đồng nội địa.

Với P và Po không đổi khi E tăng , EPo sẽ tăng. Giá của sản
phẩm nước ngoài trở nên đắt tương đối so với giá của sản phẩm
trong nước và ngược lại, giá của sản phẩm trong nước trở nên rẻ,
tương đối so với sản phẩm nước ngoài. Sản phẩm trong nước do
đó có khả năng cạnh tranh cao hơn xuất khẩu sẽ tăng ( X tăng ),
nhập khẩu giảm đi (IMgiảm), điều này làm cho xuất khẩu ròng
(NX= X_IM) tăng lên. Vì AD=C+I+G+NV nên NX tăng lên làm
cho AD dịch phải, trên hình vẽ ta thấy sản lượng cân bằng Q tăng
lên tỷ lệ thất nghiệp giảm.
AD'
P AS
LR
AS
SR

AD





Q* Q
Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ
giá hối đoái thực tế sẽ tác động đến cân bằng cán cân thương mại,
do đó tác động đến sản lượng, việc làm giá cả.
Hãy mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh
toán, ở đây có mối quan hệ giữa lãi xuất và tỷ giá hối đoái.

22

Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn,
tỷ giá hối đoái của đồng nội địa tăng lên, trong điều kiện tư bản
vận động một cách tự do thì tư bản nước ngoài sẽ tràn vào thị
trường trong nước, giả định cán cân thương mại là công bằng thì
cán cân thanh toán là thặng dư.
Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác
động đến sự cân bằng của cán cân thương mại và cán cân thanh
toán, do đó tác động đến sản lượng, việc làm cũng như sự cân
bằng của nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, một số nước trên
thế giới vẫn còn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, còn phần lớn các
nước theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý nhằm
giữ cho tỷ giá hối đoái chỉ biến động trong một phạm vi nhất
định, để ổn định và phát triển nền kinh tế.
IV. Các chế độ tỷ giá hối đoái
Hiện nay, trên thế giới và đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ
giá hối đoái biến tướng từ hai hình thức cơ bản là cố định và thả
nổi. Trong thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau càng tăng, việc lựa
chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh quốc tế, điều

kiện cụ thể từng bước và đáp ứng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nhất
là với các nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn
đề nan giải.
1. Tỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng
Theo chế độ bản vị vàng,tỷ giá hối đoái được qui định căn
cứ vào hàm lượng vàng của các đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế
thị trường hiện đại, khi thương mại quốc tế tăng lên cùng với hoạt
động đầu cơ, chế độ bản vị vàng này không đáp ứng được nhu cầu
phát triển và các nước thôi áp dụng từ năm 1971.
2. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp
Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại các nước Xã hội
chủ nghĩa thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tỷ giá hối đoái
kế hoạch bao cấp thường chênh lệch nhiều lần so với tỷ giá hối
đoái thị trường, không có vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô đối với

23

xuất nhập khẩu, loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại Việt
Nam trước năm 1989
3. Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được
quyết định hoàn toàn bởi các lực lượng cung cấp cầu về ngoại tệ.
Trong hệ thống này chính phủ giữ thái độ thụ động, để cho thị
trường ngoại tệ đánh giá giá trị của ngoại tệ - loại tỷ giá hối đoái
này ít được áp dụng vì các thị trường tiền tệ thường không hoàn
hảo và do vậy luôn cần có vai trò can thiệp của nhà nước
4. Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ
cố định với ngoại tệ, mà thả nổi đồng tiền của mình và có biện
pháp can thiệp mỗi khi thị trường trở nên (mất trật tự) , hoặc khi

tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp loại tỷ giá hối đoái này
hiện đang được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa, nơi mà
lạm phát đạt thấp, các thị trường phát triển ở trình độ cao.
5. Tỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do,
mà can thiệp vào thị trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ
nhằm ổn định tỷ giá qui định. Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ
giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp và duy trì ổn định.
* Luận cứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
Sự quản lý tối ưu của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục
tiêu kinh tế của các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc
của các cơn sốc đối với nền kinh tế và đặc trưng cơ cấu của nền
kinh tế đang xét. Vì vậy các giả thiết khác nhau về nhân tố đó có
thể dẫn đến sự thay đổi về mức độ tối ưu của chế độ tỷ giá hối
đoái. Vấn đề tiêu chuẩn tối ưu về nguyên tắc cần phải được cụ thể
hoá. Trong thực tế các phân tích hiện đại đã tập trung vào tiêu
chuẩn tương đối hẹp của ổn định kinh tế vĩ mô, được định nghĩa
là cực tiểu sai phương của tổng sản phẩm thực, mặt bằng giá hoặc
tiêu dùng thực trước cơn sốt ngẫu nhiên có tính chất tạm thời.

24

Một kết quả quan trọng của nghiên cứu lý thuyết là nói
chung tỷ giá hối đoái cố định cực đoan lẫn tỷ giá hoàn toàn linh
hoạt đều không phải là tối ưu đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Thật
vậy một mức độ tương đối của sự linh hoạt lại có nhiều khả năng
thành công hơn trong việc ổn định nền kinh tế khi cần phản ứng
lại các cơn sốc ngẫu nhiên. Các tỷ giá hối đoái " có quản lý " hoặc
" cố định linh hoạt" trở thành chế độ tỷ giá phổ biến nhất ở các
nước đang phát triển, loại cơn sốc mà nền kinh tế thường phải đối

phó trở thành vấn đề cốt lõi cần xem xét khi định liệu tỷ giá hối
đoái cố định hay điều chỉnh. Các nghiên cứu trước đây đã nhận
dạng một số tiêu chuẩn quản lý để phản ứng lại các cơn sốc trong
nước. Các cơn sốc nội địa đòi hỏi áp dụng. Tỷ giá hối đoái cố
định hay linh hoạt phụ thuộc vào cơn sốc là tiền tệ hay thực tế khi
cơn sốc là tiền tệ thì quan điểm xưa nay là duy trì tỷ giá cố định
sẽ co hiệu lực hơn trong việc ổn định tổng sản phẩm. Vì cung tiền
tệ là biến nội sinh dưới chế độ tỷ giá hối đoái, các đột biến trong
thị trường tiền tệ nội địa đơn giản sẽ được hấp thụ bởi thay đổi
của dự trữ ngoại tệ mà không ảnh hưởng đến các điều kiện cung
cầu của thị trường hàng hoá, là nơi quy định mức độ biến động
kinh tế. Đổi lại khi cơn sốc là thực tế thì tỷ giá hối đoái cần phải
được điều chỉnh ổn định tổng sản phẩm bằng cách tạo nên (hoặc
giảm) cầu bên ngoài. Nói chung, theo mục tiêu của chính sách
nhằm vào ổn định tổng sản phẩm trước các cơn sốc tạm thời thì tỷ
giá hối đoái cần phải được điều chỉnh khi cơn sốc xuất phát từ
bên ngoài hoặc từ thị trường.
Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái: một số tiêu
chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền
kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế. Tuy vậy trong
thực tế khó mà áp dụng đó cho các trường hợp cụ thể. Các khó
khăn đó không những lên quan đến các vấn đề thực tiễn, sự nhận
biết nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trưng cơ cấu mà còn liên
quan đến mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu chính sách khác
nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp
còn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra.
Các nghiên cứu về các lợi thế của tỷ giá hối đoái cố định và linh
hoạt hầu như là dành cho trường hợp một nền kinh tế nhỏ không
trải qua lạm phát cao và nói chung ở trạng thái cân bằng ngoại và

×