Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Quá trình hình thành giáo trình lý luận chung về ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng p2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.1 KB, 11 trang )


12

quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ
bình đẳng cả 2 bên cùng có lợi.
1.3/ Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ: cho
vay bằng tiền tệ là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng
mọi đối tượng trong nền kinh tế quốc dân.
- Tín dụng ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn đi vay của các thành
phần trong xã hội chứ không phải hoàn toàn là vốn thuộc sở hữu của
chính mình như tín dụng nặng lãi hay tín dụng thương mại.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập
tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã
hội. Có những trường hợp mà nhu cầu tín dụng ngân hàng gia tăng
nhưng sản xuất và lưu thông hàng hoá không tăng, nhất là trong thời
kỳ kinh tế khủng hoảng, sản xuất và lưu thông hàng hoá bị co hẹp
nhưng nhu cầu tín dụng vẫn gia tăng để chống tình trạng phá sản.
Ngược lại trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp mở
mang sản xuất, hàng hoá lưu chuyển tăng mạnh nhưng tín dụng ngân
hàng lại không đáp ứng kịp. Đây là một hiện tượng rất bình thường
của nền kinh tế.
- Hơn nữa tín dụng ngân hàng còn có một số ưu điểm nổi bật so với
các hình thức khác là:
Tín dụng ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu
cầu về vốn của các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó
có thể huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều
hình thức và khối lượng lớn.
Tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú, có thể cho
vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do ngân hàng có thể điều chỉnh
giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay.



13

Tín dụng ngân hàng có phạm vi lớn vì nguồn vốn bằng tiền là
thích hợp với mọi đối tượng trong nền kinh tế, do đó nó có thể cho
nhiều đối tượng vay.
2/ Phân loại tín dụng ngân hàng.
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn
cứ khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên người ta
thường phân loại theo một số tiêu thức sau:
- Theo thời gian sử dụng vốn vay, tín dụng được phân thành 3 loại sau:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm,
thường được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu
hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp hay cho vay phục
vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để
cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới
kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi
vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được
sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản
xuất có quy mô lớn.
Thường thì tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành
vốn cố định và một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng chia
thành 2 loại:
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được
cung cấp cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh
doanh.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân

để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để

14

mua sắm nhà cửa, xe cộ, các thiết bị gia đình Tín dụng tiêu dùng
ngày càng có xu hướng tăng lên.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo của các khoản cho vay, có các loại tín
dụng sau:
+ Tín dụng có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho
vay phát ra đều có tài sản tương đương thế chấp, có các hình thức như:
cầm cố, thế chấp, chiết khấu và bảo lãnh.
+ Tín dụng không có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các
khoản cho vay phát ra không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín
chấp. Loại hình này thường được áp dụng với khách hàng truyền
thống, có quan hệ lâu dài và sòng phẳng với ngân hàng, khách hàng
này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối với ngân
hàng như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất
kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ
Trong nền kinh tế thị trường việc phân loại tín dụng ngân hàng
theo các tiêu thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi các hình thức tín
dụng càng đa dạng thì cách phân loại càng chi tiết. Phân loại tín dụng
giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của vốn tín dụng trong từng loại
hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của
chúng.
3/ Lãi suất tín dụng ngân hàng.
3.1/ Khái niệm.
Trước hết ta cần xem xét lợi tức tín dụng. Lợi tức tín dụng là thu
nhập mà người cho vay nhận được ở người đi vay do việc sử dụng tiền
vay của người này. Ở đây người đi vay sử dụng vốn vay được để sản
xuất kinh doanh. Lợi nhuận được tạo ra trong quá trình này tất yếu

được phân chia theo một tỷ lệ thoả đáng giữa người cho vay và người

15

đi vay tương ứng với nguồn vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh. Phần lợi
nhuận dành cho người cho vay này được gọi là lợi tức.
Thực chất lợi tức là giá cả của lượng hàng hoá (tức lượng tiền tệ
) cho vay. Giá cả này lên xuống theo quan hệ cung cầu của vốn, nhưng
khác với các hàng hoá thông thường khá là giá cả của chúng phản ánh
và xoay quanh giá trị của chúng, còn giá cả của vốn lại hoàn toàn
không phản ánh được giá trị của vốn, nó còn phụ thuộc vào nhu cầu và
sự thoả thuận của 2 bên. Chính vì vậy, lợi tức chưa phản ánh được
hiệu quả của số vốn cho vay phát ra.
Như vậy, để xác định khả năng sinh lợi của vốn cho vay người ta
đã so sánh lợi tức với vốn cho vay hình thành nên lãi suất tín dụng. Vì
vậy ta có định nghĩa khái quát về lãi suất tín dụng như sau: Lãi suất tín
dụng là tỷ lệ so sánh giữa số lợi tức thu được với số vốn cho vay phát
ra trong một thời kỳ nhất định. Lãi suất tín dụng chính là sự cụ thể hoá
của lợi tức tín dụng, nó là cái giá của quyền được sử dụng vốn trong
một thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu
nó.
3.2/ Các loại lãi suất tín dụng ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và các hình thức tín dụng
mà các loại lãi suất tín dụng cũng được hình thành một cách đa dạng,
đại bộ phận chúng đều do ngân hàng trung ương kiểm soát và khống
chế. Các hình thức lãi suất càng phong phú thì càng tạo độ linh hoạt và
hiệu quả trong quan hệ tín dụng vì chính lãi suất là chất xúc tác hình
thành nên quan hệ tín dụng, do đó cần phải phân biệt được các loại lãi
suất tín dụng ngân hàng để thấy được hiệu quả của chúng trong phát
triển tín dụng nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung.

Thông thường hệ thống lãi suất trên thị trường có các loại lãi suất
sau:

16

- Lãi suất cơ bản: là lãi suất do ngân hàng trung ương công bố làm cơ
sở cho các NHTM và các tổ chức tín dụng khác ấn định lãi suất kinh
doanh.
- Lãi suất sàn và lãi suất trần: là lãi suất thấp nhất và lãi suất cao nhất
trong một khung lãi suất nào đó mà ngân hàng trung ương ấn định cho
các NHTM hoặc do NHTM quy định trong hệ thống của nó nhằm
thống nhất các hoạt động tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn mà ngân hàng
trung ương dành cho các NHTM, trong trường hợp cấp vốn cho chúng
thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá. Lãi
suất tái chiết khấu là lãi suất gốc của các NHTM, để từ đó chúng ấn
định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác trong khung lãi suất
được phép.
- Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực:
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà người cho vay được hưởng,
không tính đến sự biến động của giá trị tiền tệ, nó được xác định cho
một kỳ hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả
thuận trước.
Lãi suất thực là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá
trị tiền tệ, như lạm phát hoặc lên giá tiền tệ. Do đó ta có công thức tính
lãi suất thực như sau: Lãi suất thực= lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm
phát dự đoán.
Do vậy, lãi suất danh nghĩa luôn lớn hơn 0 nhưng lãi suất thực
thì không phải lúc nào cũng dương, khi xảy ra lạm phát mà tỷ lệ lạm
phát lại lớn hơn lãi suất danh nghĩa thì lúc đó lãi suất thực sẽ <0 điều

này sẽ gây bất lợi cho người cho vay và người đi vay lại có lợi hơn.
Chính lãi suất thực ảnh hưởng đến đầu tư, đến việc tái phân phối thu

17

nhập giữa người cho vay và người đi vay, vì vậy ngân hàng chỉ thực sự
thúc đẩy tích luỹ khi đưa ra được chính sách lãi suất thực dương.
4/ Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Là một mối quan hệ kinh tế, tín dụng ngân hàng có những tác
động nhất định đến hoạt động kinh tế. Nhất là trong nền kinh tế thị
trường, nó có vai trò khá quan trọng:
4.1/ Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội
phát triển.
Nhờ có nguồn vốn tín dụng của ngân hàng nên các doanh nghiệp
có điều kiện bổ sung vốn thiếu hụt tạm thời hay mở rộng nguồn vốn
đảm bảo được quá trình sản xuất bình thường và còn có thể mở rộng
sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật công nghệ mới tăng tính
cạnh tranh. Tín dụng đã giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình
sản xuất và tiêu thụ, tạo điều kiện để duy trì mối liên hệ hữu cơ giữa
sản xuất, lưu thông hàng hoá và tiêu dùng xã hội.
Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá, quan hệ quốc tế ngày
càng tăng cường, mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của thị trường
thế giới, do đó tín dụng ngân hàng trên lĩnh vực tín dụng quốc tế cũng
trở nên quan trọng giúp cho việc liên kết chuyển giao công nghệ giữa
các nước trên thế giới được nhanh chóng, rút ngắn thời gian phát triển.
Như vậy hoạt động tín dụng của các NHTM đã góp phần thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng ngay cả trong nước và
quốc tế.
4.2/ Tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan
trọng, từ đó giúp cho việc tích tụ và tập trung sản xuất.

Tín dụng ngân hàng tập trung các khoản tín dụng nhỏ lẻ thành
các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn hiệu
quả cao. Đồng thời các doanh nghiệp cũng nhờ các khoản tín dụng mà

18

có đủ vốn để mở rộng sản xuất rút ngắn thời gian tích luỹ vốn. Tóm
lại, tín dụng đã đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung vốn cho sản xuất.
Thông qua tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp nhận được khối
lượng vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất
lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng khả
năng cạnh tranh làm cho doanh nghiệp lớn ngày càng lớn lên, doanh
nghiệp nhỏ bị phá sản do không cạnh tranh nổi, từ đó các doanh
nghiệp nhỏ phải liên kết với nhau tăng khả năng cạnh tranh, như vậy
tín dụng đã góp phần thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
4.3/ Tín dụng ngân hàng giúp cho việc điều hoà nguồn vốn góp
phần ổn định thị trường tiền tệ, phát triển cân đối các ngành trong nền
kinh tế quốc dân, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thông qua tín dụng mà nguồn vốn dịch chuyển từ nơi thừa đến
nơi thiếu, làm cho xã hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó
khăn ở nơi thiếu vốn, giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả, góp phần
làm cho tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền vốn tăng lên, tạo sự phát
triển đồng đều trong các ngành.
Việc điều hoà nguồn vốn, đồng thời thông qua khung lãi suất
quy định giúp cho chính sách tiền tệ của Chính phủ được thực hiện,
điều hoà lưu thông tiền tệ góp phần ổn định tiền tệ, và sự phát triển
lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ.
Hơn nữa, thông qua tín dụng ngân hàng, Chính phủ có những
chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển các vùng, miền hay các ngành then

chốt, trọng điểm nhờ vào việc đưa ra các ưu đãi tín dụng do vậy đã
kích thích thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng, ngành trọng
điểm trong diện ưu tiên của Chính phủ, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo sự phát triển cân đối trong cả nước.

19

CHƯƠNG II: CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM VÀ BIỂU HIỆN THỰC TẾ Ở VIỆT
NAM.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của
NHTM, bao gồm cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan, như: Môi
trường kinh doanh, môi trường pháp luật, địa bàn hoạt động Tuy
nhiên trong chương này sẽ chỉ đề cập về một số yếu tố chủ quan, bản
thân ngân hàng kiểm soát được có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và
khả năng phát triển của hoạt động tín dụng trong các NHTM, và tình
trạng của chúng trong thực tiễn ở Việt Nam.
I/ Quy trình tín dụng.
Hoạt động cho vay là một hoạt động cơ bản của ngân hàng. Nó
mang lại doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên việc cho vay là một vấn đề không đơn giản, nó mang lại khá
nhiều rủi ro, bất trắc, vì vậy để đảm bảo cho hoạt động này có hiệu quả
tích cực thì cần phải đảm bảo thực hiện cho vay theo đúng quy trình
thủ tục đã được quy định. Quy trình cho vay đối với các đối tượng
khác nhau cũng khác nhau. Và ở Việt Nam có quy định cụ thể về quy
trình cho vay đối với các tổ chức tín dụng như sau:
1/ Hình thành khoản vay.
Đối với cá nhân thì hầu hết các khoản vay được bắt đầu bằng
việc khách hàng xin vay vốn, họ đến gặp nhân viên ngân hàng và ghi
những thông tin cần thiết vào đơn xin vay. Trong trường hợp cho vay

kinh doanh, các doanh nghiệp thì thường bắt đầu bằng việc tiếp xúc
giữa cán bộ tín dụng và đại diện các hãng. Đây chính là cơ hội đầu tiên
để cán bộ ngân hàng tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp và thuyết
phục họ về một khoản vay.
2/ Xử lý yêu cầu vay vốn.

20

Sau khi nhận được một yêu cầu vay vốn thì cán bộ ngân hàng
cần xử lý yêu cầu vay vốn này. Với một khách hàng cá nhân thì anh ta
cần trả lời đầy đủ các câu hỏi của cán bộ tín dụng, qua đó cán bộ có
thể tìm hiểu về mục đích xin vay, tính cách và điều kiện, khả năng sử
dụng vốn và khả năng trả nợ của khách hàng qua đó có thể chấp nhận
hay từ chối khoản vay.
Còn đối với doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải thu thập thông
tin cần thiết về doanh nghiệp gồm các thông tin về quản lý, hành
chính; thông tin về tình hình tài chính, về cá nhân; thông tin về khoản
vay của doanh nghiệp. Việc thu thập thông tin không chỉ thông qua
phỏng vấn, giấy tờ báo cáo của doanh nghiệp mà cán bộ còn phải đi
xuống tận cơ sở sản xuất kinh doanh để quan sát, nghiên cứu. Ngoài ra
còn phải điều tra thêm về các thông tin khác có liên quan đặc biệt là
việc thực thi các quan hệ tín dụng trước đó của doanh nghiệp thông
qua tiếp xúc với các chủ nợ trước đó. Xác định các thông tin doanh
nghiệp đã cung cấp và khám phá các thông tin mới cần thiết về hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi đã xác định rõ thì
ngân hàng còn có thể tư vấn cho khách hàng vay vốn về sự hợp lý của
yêu cầu vay vốn và có thể gợi ý sự sửa đổi.
3/ Đưa ra quyết định cho vay.
Sau khi đã tập hợp đầy đủ thông tin tài liệu thì bộ phận phân tích
tín dụng sẽ tiến hành phân tích các báo cáo tài chính nhằm xác định

xem dòng tiền và các tài sản dự phòng của khách có đủ hoàn trả món
vay hay không, sau đó sẽ chuẩn bị một bản báo cáo tóm tắt có kèm
theo kết quả phân tích để gửi cho người có thẩm quyền xem xét. Từ đó
rút ra kết luận chính xác về điểm mạnh điểm yếu trong yêu cầu xin vay
của khách hàng. Sau khi đã xem xét khoản vay, chính sách tín dụng và
mục đích, mục tiêu của ngân hàng, cán bộ phải đưa ra một quyết định

21

có nên cho vay hay không và doanh nghiệp phải được thông báo ngay
lập tức. Nếu yêu cầu được chấp thuận cán bộ tín dụng phải trao cho
người vay danh mục các chứng từ cần thiết để ký kết khoản vay và
đưa ra ngày dự tính ký kết.
4/ Cấu trúc khoản vay, ký kết khoản vay.
Một khoản vay có cấu trúc hoàn hảo là khoản vay đáp ứng được
nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp đồng thời cũng thoả mãn các tiêu
thức tín dụng của ngân hàng. Cấu trúc của khoản vay gồm các yếu tố:
lãi suất; thời hạn và lịch hoàn trả; sự đảm bảo; người bảo lãnh; các hạn
chế và kiểm soát. Các yếu tố này phụ thuộc vào sự đàm phán thỏa
thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp xin vay.
Sau khi đã đạt được thoả thuận vay vốn thì hai bên cần xây dựng
một hợp đồng tín dụng làm sao cho phù hợp với tình hình riêng biệt cụ
thể và đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng. Và cuối cùng là việc
ký kết khoản vay. Trước khi ký kết cần phải chuẩn bị lập ra một danh
mục kiểm tra toàn bộ các chứng từ tài liệu cần thiết, và ngày ký kết
phải có đầy đủ 2 bên, và đảm bảo cả 2 đều phải hiểu cặn kẽ giấy tờ
vay vốn. Việc ký kết khoản vay được quản lý tốt sẽ có tác dụng rất lớn
trong việc thúc đẩy mối quan hệ làm ăn tốt giữa ngân hàng và doanh
nghiệp.


5/ Kiểm soát khoản cho vay.
Ký kết tín dụng chưa phải là đã kết thúc một quá trình cho vay
mà ngân hàng còn phải tiếp tục theo dõi khoản cho vay này để đảm
bảo rằng khách hàng sẽ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi như đã cam
kết. Còn với các khoản cho vay thương mại lớn cán bộ tín dụng phải
đến và kiểm tra công việc kinh doanh của khách hàng định kỳ, đồng
thời phải tổ chức quá trình kiểm soát cẩn thận và nghiêm túc để đảm

22

bảo xem xét và đánh giá được tất cả những đặc tính quan trọng nhất
đối với khoản vay như: đánh giá quá trình thanh toán, đánh giá chất
lượng, tình trạng của tài sản thế chấp, đánh giá sự thay đổi trong tình
hình tài chính của người vay Tiến hành theo dõi thường xuyên hơn
đối với những khoản cho vay có vấn đề.
Kiểm soát tín dụng là rất quan trọng đối với hoạt động cho vay
của ngân hàng. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng phát
hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác
định được vấn đề các cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho
vay của ngân hàng hay không.
6/ Xử lý khoản vay có vấn đề.
Mặc dù đã có những biện pháp quản lý an toàn áp dụng trong các
chương trình cho vay song việc tồn tại các khoản cho vay có vấn đề là
một thực tế không thể tránh khỏi, có nghĩa là người vay đã không thực
hiện thanh toán đúng kế hoạch hay giá trị tài sản thế chấp đã sụt giảm
đáng kể.
Khi cán bộ tín dụng nhận ra khoản vay có vấn đề thường thì cán
bộ tín dụng cần phải liên lạc với doanh nghiệp để giám sát khoản vay.
Nếu ngân hàng và doanh nghiệp muốn sửa chữa khoản vay thì phải
xác định được nguyên nhân của vấn đề và tìm ra giải pháp, khi kế

hoạch sửa chữa đã được thiết lập thì ngân hàng phải giám sát việc thực
hiện một cách liên tục, doanh nghiệp phải báo cáo thường xuyên và cả
2 bên cùng phải quan tâm tích cực và phải thường xuyên thận trọng
phân tích kết quả của chương trình sửa chữa. Và thường thì ngân hàng
chỉ tiến hành thủ tục pháp lý để thu hồi khoản nợ vay sau khi đã áp
dụng các biện pháp chỉnh sửa mà không có hiệu quả.
7/ Thu nợ.

×