Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bản chất và hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư m - 1 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.7 KB, 7 trang )

8

Từ đó ta có bảng sau:
Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới
Giá trị 10 kg bông 10 đôla Lao động cụ thể của công nhân bảo tồn và
chuyển giá trị 10 kg bông vào 10 kg sợi 10 đôla
Hao mòn máy móc 2 đôla Khấu hao tài sản cố định 2 đôla
Tiền thuê sức lao động trong một ngày 4 đôla Giá trị mới do 8 giờ lao động của
người công nhân tạo ra. 8 đôla
Tổng chi phí sản xuất 16 đôla Tổng doanh thu 20 đôla


Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng chi phí tư
bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng ra đ• tăng
lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư.
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản đ• được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền
thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong lĩnh
vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc
biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhàtư bản sử dụng hàng hoá đó trong sản
xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
9

Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất (10 kg sợi), chúng ta thấy có hai
phần :
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà được
bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
Giá trị do lao động trìu tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình lao động
gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị


sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của người công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành
hai phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: trong thời gian này người công nhân
tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền
công mà nhà tư bản giả cho mình(4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư : trong thời gian lao động
thặng dư người công nhân tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao động hay
tiền lương nhà tư bản đ• trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4 đôla) và bộ phận
này thuộc về nhà tư bản ( nhà tư bản chiếm đoạt)
Từ đó mà C Mac đ• đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi điểm
mà ở đó sức lao động của người công nhân đ• tạo ra một lượng giá trị mới ngang
bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đ• trả họ. Thực chất
10

của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó là
sức lao động được trả ngang giá.
II Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, do vậy mà các
nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư. Những
phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và
tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn
thấp thì phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản thường dùng để tăng giá trị thặng
dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân , trong điều kiện thời gian lao động
là tất yếu không thay đổi.

Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thơi gian lao động cần thiết và
4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là
100%. Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần
thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối , vì thế
giá trị thặng dư cũng tăng lên , trình độ bóc lột tăng lên đạt 200%(m’=200%).
Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này
đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù
sức lao động của công nhân là hàng hoá , nhưng nó tồn tại trong cơ thể sống con
người vì vậy mà người công nhân cần có thời gian để ăn ngủ nghỉ ngơi giải trí để
phục hồi sức khoẻ nhằm tái sản xuất sức lao động. Mặt khác , sức lao động là thứ
11

hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi phải có
thời gian cho nhu cầu sinh hoạt về tinh thần , vật chất , tôn giáo của mình. Như
vậy , về mặt kinh tế , ngày lao động phải dài hạn thời gian lao động tất yếu , nhưng
không thể vượt qua giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Vì thời gian lao động quá dài , do vậy mà đ• dẫn đến phong trào giai cấp vô sản
đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Chính vì
vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn
, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
2 Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian lao
động cần thiết để trên cơ sở đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư,
trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là
thời gian lao động thặng dư , trình độ bóc lột 100%.Giả thiết rằng công nhân chỉ
cần 2 giờ lao động đ• tạo ra được một giá trị bằng giá trị sức lao động của mình.
Do đó mà tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời
gian lao động giá trị thặng dư trong trường hợp đó cũng không thay đổi. Khi đó
thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ

bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300%(m’=300%).
Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó gia tăng tương ứng
phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm mọi biện pháp để tăng
năng suất lao động trong những nghành sản xuất tư liệu sinh hoạt. Đồng thời nâng
12

cao năng suất lao động x• hội trong những nghành, những lĩnh vực sản xuất ra vật
phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn sau khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối đ• chiếm ưu thế. Hai phương pháp trên đ• được các nhà tư bản
sư dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong
các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Phần III : Kết luận
Mục đích của các nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất giá trị
thặng dư. sản xuất giá trị thặng dư là động lực vận động của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa.C.mac viết “mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu,
nhân giá trị lên, làm tăng giá trị do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị
thặng dư”.
Để sản xuất giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản đ• dùng mọi thủ đoạn để bóc lột
công nhân làm thuê như “kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động”.
Như vậy nội dung của quy luật giá trị thặng dư là để thu được giá trị thặng dư một
cách tối đa, nhà tư bản đ• tăng số lượng lao động làm thuê và tìm mọi cách, mọi
thủ đoạn để bóc lột họ.
Trong giai đoạn hiện nay các nhà tư bản đ• thực hiện cải tiến thiết bị máy móc
trong sản xuất để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng hoá.Đồng thời thu
hút đội ngũ kỹ sư có trình độ cao mà chức năng của họ chủ yếu là đảm bảo sử
13

dụng hiệu quả tất cả các nhân tố của sản xuất trước hết là sức lao động chính vì

vậy mà tăng giá trị thặng dư.




















14









×