Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các buồng tim pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.33 KB, 6 trang )

Các buồng tim

Các buồng tim tạo ra một đường dẫn máu phức tạp gồm nhiều chặng đi khắp
cơ thể, ban đầu máu sẽ được đưa đến phối để hô hấp rồi sau đó phân phát
đến các tế bào của cơ thể để duy trì sự sống. Nguyên tắc của đường dẫn này
được giải thích bằng các quy luật sau: 1) sự khác nhau về thể tích của các
buồng tim; và 2) sự khác nhau về độ chênh áp đạt được khi các buồng tim co
lại và dãn ra.

Tim bao gồm 4 buồng: 2 tâm nhĩ và 2 tâm thất. Tâm nhĩ nhỏ nhất bằng
khoảng 1/3 kích thước và thể tích của tâm thất. Tâm thất trái là buồng tim
lớn nhất, có khối lượng cơ nhiều gấp 3 lần so với thất phải - cả 2 tâm thất
đều có dung tích chứa bằng nhau. Do kích thước vượt trội của thất trái nên
không có gì ngạc nhiên khi biết được rằng khoảng 70% trường hợp nhồi
máu cơ tim là ở thất trái.
Mục tiêu chính của các buồng tim là hoàn thành vai trò chức năng cơ học
của một cái bơm máu, ngoài ra nó còn có những chức năng khác, trong đó
bao gồm chức năng tác động lên nhịp tim và một số vai trò nội tiết.
Tâm nhĩ phải
Nhĩ phải nhận máu ít oxy từ tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới. Nhĩ
phải còn nhận máu từ các xoang vành, là đường ra tĩnh mạch của hệ tuần
hoàn vành (van một chiều bao phủ xoang vành được gọi là van Thebesian).
Tĩnh mạch chủ trên không có van còn tĩnh mạch chủ dưới có một van không
hoàn chỉnh là van eustachian. Lưu ý rằng tĩnh mạch chủ dưới sẽ nhận dòng
máu phụt ngược (cũng như dòng phụt đến tĩnh mạch cảnh - được gọi là sóng
"a") khi tâm nhĩ phải bóp kháng cự lại với van ba lá lúc lá van này đã đóng
lại . Hiện tượng này sẽ xảy ra với những loại nhịp tim như nhịp bộ nối, nhịp
nhanh thất và block nhĩ-thất độ III.
Tâm nhĩ phải cũng gây ảnh hưởng lên nhịp tim nhờ các thụ thể áp lực
(barroreceptor) nằm ở mặt trong của nó. Các thụ thể áp lực đáp ứng với tình
trạng giảm lượng máu đến nhĩ phải (tiền tải) bằng cách làm tăng nhịp tim


(nói theo một cách khác, bằng cách không kích thích dây thần kinh phế vị,
cho phép hệ thần kinh giao cảm nắm quyền điều khiển). Gia tăng lượng máu
đến làm kích thích dây thần kinh phế vị làm chậm nhịp tim. Tác dụng này có
thể được nhìn thấy ở các trường hợp loạn nhịp xoang, thấy trong các trường
hợp nhịp tim xuất phát từ nút xoang nhưng hơi không đều, tăng lên khi hít
vào (tăng thể tích lồng ngực và giảm lượng máu tĩnh mạch đổ về) và giảm
xuống khi thở ra (giảm thể tích lồng ngực và tăng lượng máu tĩnh mạch đổ
về).
Tâm nhĩ phải và trái còn đóng vai trò nội tiết bằng cách tiết ra ANP (atrial
natriuretic peptide), làm giảm các tác dụng của epinephrine, endothelin, và
hệ renin-angiotension-aldosterone. ANP được phóng thích ra khi tâm nhĩ bị
căng, có nghĩa là gia tăng tiền tải của tim. Các tác động của ANP bao gồm:
 Làm giảm nhịp tim
 Làm giảm tiền tải bằng cách dãn mạch, tăng bài xuất nước tiểu
 Kích thích dây thần kinh phế vị; và
 Ức chế phì đại thất
Thành tâm nhỉ chỉ dày khoảng 2mm là kết quả của tình trạng áp lực thấp ở
buồng tim này và của sự dễ dàng bơm máu đến vùng có áp lực thấp (thất
phải).
Tâm thất phải
Tâm thất phải được ngăn cách bởi thất trái bởi một vách ngăn. Thất phải
tống máu qua van động mạch phổi để đến các động mạch phổi. Khi áp lực
máu ở động mạch chủ vào khoảng 120/80 thì áp lực ở động mạch phổi vào
khoảng 26/10. Nói một cách khác, trong khi thất trái phải bơm máu chống
lại một áp lực tâm trương (áp lực trước khi co bóp) là "80" thì tâm thất phải
chỉ phải chống lại một áp lực bằng khoảng 1/8 so với bên trái, vào khoảng
10mmHg.
Ở người lớn, thành tâm thất phải dày khoảng 4-5mm. Nguồn cung cấp máu
cho cơ tim ở tâm thất phải chủ yếu đến từ động mạch vành phải. Nhồi máu
cơ tim mặt dưới thường là ở thất phải

Tâm nhĩ trái
Tương tự như nhĩ phải, tâm nhĩ trái có các chức năng sau:
 Bơm máu cho tim trái
 Tác động đến nhịp tim
 Có tính chất nội tiết.
Thành nhĩ trái hơi lớn hơn nhĩ phải, khoảng 3mm.
Tâm thất trái
Tâm thất trái là buồng tim lớn nhất, chiếm phần lớn mặt trước và mặt bên
trái của tim. Thất trái cũng chiếm phần lớn mỏm tim. Thành của tâm thất trái
dày khoảng 8-15mm, còn độ dày ở mỏm tim khoảng 2mm.
Máu được tống ra khỏi thất trái (cũng như thất phải) tùy thuộc vào một số
yếu tố sau:
 Định luật Starling: càng có nhiều cơ ở thành co thì lực bóp càng
mạnh. Do đó có nhiều máu được tống ra ngoài hơn.
 Nhịp tim: lượng máu được tống ra khỏi thất trái tăng lên theo nhịp
tim đến một giới hạn nhất định. Lưu ý rằng khi nhịp tim đạt đến khoảng trên
150 lần/phút, thời gian để tim được đổ đầy máu ở mỗi nhịp đập sẽ giới hạn
lại, dẫn đến dung tích ở nhĩ trái giảm, giảm sức căng, giảm lực bóp, và cuối
cùng là giảm lượng máu được tống ra.
 Tiền tải: nguồn máu đổ vào tim ảnh hưởng đến lượng máu đi vào
thất. Nguồn máu này được gọi là tiền tải (về mặt kỹ thuật mà nói thì tiền tải
được định nghĩa là áp lực vào cuối thì tâm trương của thất trái). Khi tiền tải
hoặc lượng máu đổ vào tim gia tăng, lượng máu được tim tống ra ngoài (thể
tích nhát bóp) cũng gia tăng và ngược lại.
 Hậu tải: là áp lực bên trong động mạch chủ trước khi tâm thất bóp và
sức đề kháng của mạch máu hệ thống. Hậu tải là áp lực mà tâm thất trái phải
chiến thắng để bơm máu vào động mạch chủ. Hậu tải càng cao thì tâm thất
trái càng khó bơm máu đi khắp cơ thể và do đó lượng máu được tống ra khỏi
tim (thể tích nhát bóp) sẽ giảm xuống. Khi hậu tải giảm, thể tích nhát bóp
cũng giảm.

 Nhĩ bóp: Sự co lại của nhĩ trước khi tâm thất co làm cho nhiều máu
hơn (khoảng 1/3 lượng máu) đi vào tâm thất và cơ sẽ căng nhiều hơn. Theo
luật Starling, lượng máu do nhĩ bóp chiếm khoảng 15-30% lượng máu mà
tim tống ra ngoài. Khi già đi, thì tỷ lệ phần trăm này sẽ tăng lên. Chẳng hạn
như ở những người già bị rung nhĩ, chúng bị ảnh hưởng nhiều hơn do 1/3
lượng máu cung cấp cho các tế bào bị giới hạn lại.
 Sự phối hợp của tim: Sự co bóp của tim đi theo một con đường được
chuyên biệt hóa để tối ưu hóa lượng máu được bơm. Khi đường dẫn truyền
điện của tim trở nên bất thường, hiệu quả co bóp của tim sẽ bị cản trở dẫn
đến giảm thể tích nhát bóp. Chẳng hạn như những xung bắt nguồn từ tâm
thất thường tạo ra những đợt bơm máu kém hiệu quả hơn của tâm thất so với
những xung đi theo con đường tối ưu bắt nguồn từ các xung ở trên thất.
Khi khám cho một bệnh nhân tim mạch, bác sĩ cần phải phối hợp tất cả các
yếu tố này lại với nhau. ECG, bệnh sử, và các dấu hiệu sinh tồn có thể
hướng bạn đi theo một hướng đúng trong việc đánh giá hiệu quả bơm máu
của thất trái.
Vách tim
Tim thường được mô tả như thể là có 2 quả tim: tim phải và tim trái. Điều
này là do có một lớp mô liên kết dày được gọi là vách tim ngăn tim ra thành
2 nửa: phải và trái. Ở phía đầu (các tâm nhĩ) cũng được ngăn ra bởi lớp mô
liên kết bắt nguồn từ đáy tim. Các lớp mô liên kết này tạo ra cấu trúc của
tim. Mô liên kết không dẫn truyền hoạt động điện và đóng vai trò như một
hàng rào cách điện. Đây là một yếu tố quan trọng để có thể hiểu được hệ
thống điện của tim.
Vách tim cũng góp phần trong hoạt động co bóp của tâm thất.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×