Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Bình giảng 20 dòng thơ mở đầu bài thơ Việt Bắc pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.52 KB, 27 trang )

Bình giảng 20 dịng thơ mở đầu bài thơ Việt Bắc để

thấy được thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc

"Việt Bắc" được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến

chống Pháp, nhưng trước hết là một trong những đỉnh cao

của thơ Tố Hữu. Bởi nó khơng chỉ thể hiện những tình

cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách mạng

mà nó cịn kết tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới

nghệ thuật của Tố Hữu. Đó là những đặc trưng về chất trữ


tình chính trị của thơ THữu, là đặc trưng về tính dân tộc,

về màu sắc dân gian trong ngơn ngữ thơ của Tố Hữu. Vì

thế bài thơ vừa đem đến cho người đọc những nhận thức

sâu sắc về niềm tự hào đối với cuộc khchiến thần thánh

của chúng ta, lại vừa đem đến cho người đọc những rung

cảm thẩm mỹ hết sức mạnh mẽ. Có thể thấy những đặc

sắc này ngay từ những dịng thơ mở đầu của "Việt Bắc".


"Mình về mình có nhớ ta

.........................................


Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,cây đa"

Người ta thường nói đến một đặc trưng nổi bật của thơ Tố

Hữu, đó là chất trữ tình chính trị vì mỗi chặng đường thơ

của Tố Hữu dường như đều gắn liền với mỗi chặng

đường cmạng của dtộc chúng ta, từ thuở "Từ ấy" cho đến

"Một tiếng đờn" sau này. Nói như thế cũng là nói về "Việt

Bắc", bài thơ đã tạo nên một trong những đỉnh cao vời vợi

của thơ Tố Hữu. Bởi vì bài thơ đã ra đời từ một sự kiện

chính trị hết sức lớn lao trong đời sống của dân tộc, sự


kiện các cơ quan của trung ương Đảng, của chphủ, các

cơ quan khchiến, các cán bộ chiến sĩ kháng chiến sau khi

hồ bình lập lại đã giã từ Việt Bắc để về xuôi, về tiếp quản


Thủ đô. Tố Hữu muốn thông qua "Việt Bắc" để dựng lại

bức tranh tổng quát của cuộc khchiến 9 năm rất đáng tự

hào của dân tộc ta trên chiến khu Việt Bắc, lại vừa ghi lấy

cái thời điểm chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với các cơ

quan kháng chiến. Nhưng Tố Hữu đã không làm bản tổng

kết về cuộc kháng chiến, không làm bản thơng báo về sự

kiện chính trị kia mà đã trữ tình hố tất cả những nội dung

thấm đẫm màu sắc chính trị ấy. Người ta đã có lý khi nói


thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí

tuệ", nghĩ là từ cảm xúc mãnh liệt của trái tim mà thức

nhận những chân lý sống, chân lý cmạng.

Với ý tưởng trữ tình hố sự kiện chtrị cũng như đsống

chtrị của đất nước, viết "Việt Bắc", THữu đã sáng tạo nên

một cấu tứ rất độc đáo, cấu tứ từ khúc hát đối đáp trong

cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để từ những


khúc hát đối đáp ấy khơi gợi những kniệm về những ngày

kháng chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kniệm kia

mà dựng lại quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến,


dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người chiến

sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng. Vì thế ngay từ những câu

thơ mở đầu ta đã thấy cuộc trò chuyện tâm tình, những

câu hát đối đáp giữa "mình" và "ta" vô cùng tha thiết, mặn

nồng. THữu đã sử dụng những cặp từ đối đáp rất quen

thuộc trong ca dao, dân ca để cuộc chia tay trở nên đằm

thắm như của đơi lứa u nhau. Những chữ "mình", "ta"

từ câu thơ mở đầu cho tới những dòng thơ cuối cùng ln

ln khơi gợi những tình cảm mặn nồng, khơng bao giờ

phai nhạt giữa V Bắc và cách mạng, kháng chiến.


Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến, bịn rịn của VBắc đối


với người về xuôi, khúc hát chia tay đã được bắt đầu cất

lên từ chính lịng người ở lại. Tố Hữu như muốn nói lịng

người VBắc thuỷ chung với cách mạng biết nhường nào.

Ngay từ câu thơ mở đầu, trong 6 tiếng đã có tới 2 tiếng

"mình" thân thương.. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với

"mình" như để nói lịng người VBắc khơng ngi nhớ

người về xi, nhưng lại cũng như xoáy sâu vào ký ức

của người về xi những kniệm chan chứa nghĩa tình.

Cũng ngay từ câu thơ mở đầu, những chữ "mình", "ta" đã

như quấn qt lấy nhau như sự gắn bó khơng muốn chia


xa giữa người ở và người về. Âm điệu của câu thơ chủ

yếu được tạo bởi thanh bằng: "Mình về mình có nhớ ta",

với một chữ "ta" ở cuối làm cho tcảm nhớ thương vừa

lắng vào lòng người trong cuộc chia tay lại vừa lan xa


mênh mang.

Kết cấu của 2 câu thơ mở đầu là kết cấu của một câu hỏi

tu từ, câu hỏi khơi gợi những kniệm thiết tha mặn nồng,

câu hỏi bao trùm cả không gian của 15 năm ấy. Câu hỏi

thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người nghe

nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kniệm đầy xúc


động của 15 năm cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để

làm nên một VNam dchủ c hoà, bởi THữu đã sử dụng một

thứ ngôn ngữ chan chứa cảm xúc. Những chữ "mười lăm

năm ấy" gợi ta nhớ tới "cái thuở ban đầu" của tình u đã

từng được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:

"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy - Nghìn năm hồ dễ đã ai

quên"

Người về làm sao có thể quên được 15 năm ấy của mối

tình đầu giữa cách mạng và VBắc. Cùng với sự khơi gợi



những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những tình cảm

"nghìn năm hồ dễ đã ai quên", câu thơ còn được tiếp tục

bởi những chữ "thiết tha mặn nồng". Một câu thơ viết về

15 năm của cmạng, của khchiến mà nồng nàn, mà tha

thiết và trữ tình biết bao.

Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về

xuôi, vẫn là một cách xưng hơ hết sức tình tứ "mình" với

"ta", nhưng ở 2 dịng thơ tiếp theo lại là câu hỏi bao trùm

cả không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian

của những kniệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả


đất nước, bao trùm cả miền ngược lẫn miền xuôi, không

gian của cây với núi, của sông với nguồn. Một câu hỏi làm

bâng khuâng cả núi rừng sông núi, cả đất trời trong khung

cảnh chia tay. Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy


cũng có sự hồ hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia

tay giữa "mình" với "ta" là một sự kiện lớn lao trong đời

sống của đất nước.

Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu

của câu hỏi, qua từ ngữ xưng hơ tình tứ mà cịn qua

những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng thể phú, thể


tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ

"Mình về mình có nhớ ta- Mười lăm năm ấy thiết tha mặn

nồng - Mình về mình có nhớ khơng - Nhìn cây nhớ núi,

nhìn sơng nhớ nguồn"

Ta ngỡ như câu ca dao:

"Qua đình ngả nón trơng đình - Đình bao nhiêu ngói

thương mình bấy nhiêu - Qua cầu ngả nón trơng cầu- Cầu

bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu"



Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chtrị mà vẫn thấm cái

hồn của ca dao, dân ca. 4 câu thơ như bài ca dao vậy,

chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn, trăn trở của

người ở lại, của VBắc vô cùng thuỷ chung với cmạng.

THữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cxúc

xuyên suốt "VBắc" hết sức đặc sắc. Mạch thơ trong

những câu mở đầu này cứ thế mà tuôn chảy dào dạt.

Nằm trong mạch hát đối đáp, bài thơ đã dành đúng 4

dòng thơ diễn tả tâm trạng người về xuôi, tạo nên sự cân


đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương xứng của

lịng người về xi với VBắc, tương xứng với sự thuỷ

chung của VBắc. ở 4 dòng thơ này như có sự nhớ thương

đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với thiết tha, cái bịn

rịn không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở


lại. Nằm trong mạch cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi

lứa u nhau, THữu bng một câu thơ rất tình tứ:

"Tiếng ai tha thiết bên cồn"

Chỉ một chữ "ai" thôi đủ làm say đắm lòng người. Chữ "ai"


đâu phải để hỏi vì muốn biết ai; chữ "ai" đâu cũng còn là

đại từ phiếm chỉ để chỉ chung, chỉ một đối tượng không

xác định bởi ở đây cả "ta" lẫn "mình" đang lên tiếng hát

cho cuộc chia tay đầy lưu luyến này. Chữ "ai" chỉ là một

cách nói để làm tăng thêm tcảm yêu thương, để câu nói

trở nên tình tứ mà thơi. Người về xi trong nỗi niềm xúc

động như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lịng của mình

để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ chung

kia, để rồi bày tỏ tcảm của mình. Đó là trạng thái "bâng

khng trong dạ, bồn chồn bước đi". Những chữ "bâng

khuâng", "bồn chồn" diễn tả rất chính xác trạng thái tcảm



của người về xi. Bâng khng chính là nỗi niềm thương

nhớ đối vơí cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở

thành kỷ niệm của những ngày kháng chiến, những kniệm

cịn vương vấn, cịn dâng đầy trong tâm trí người về xi.

Bước chân về xi mà lịng dường như vẫn còn vấn

vương với VBắc. Còn "bồn chồn" là một từ đã tâm trạng

hóa bước đi của người về xi, những bước đi không nỡ

rời mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi bước đi mỗi

bước nhớ nhung, mỗi bước đi mỗi bước không yên bởi

nỗi niềm thương nhớ ấy.


Với câu thơ thứ 3 ở khổ thơ này, THữu đã bất ngờ làm

hiện ra ý nghĩa lsử của cuộc chia tay. Bởi với những dịng

thơ mở đâù trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ của "mình"

với "ta", của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy


trở thành cuộc chia tay lớn của cả VBắc đvới người

khchiến từ một hình ảnh hốn dụ:

"áo chàm đưa buổi phân ly"

Cả VBắc như "ngẩn ngơ" trong cuộc chia tay lsử ấy. Hình

ảnh "áo chàm" dùng để chỉ hình ảnh của VBắc trong thủ


pháp hoán dụ. Cái "ngẩn ngơ" của VBắc hiện ra ở những

chữ "đưa buổi phân ly". Trong khi đó, câu thơ

"Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay"

Khơng chỉ thể hiện cái lặng đi trong giây phút xđộng của

người về xi mà cịn diễn tả cái ngập ngừng, bịn rịn, lưu

luyến trong bước chân của người về xuôi qua sự đột biến

của nhịp điệu câu thơ, bởi câu thơ lục bát vốn có kết cấu

của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc

hát chia tay, đã chuyển thành nhịp lẻ: 3/3/2



" Cầm tay nhau / biết nói gì / hơm nay"

Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ

"Bước đi một bước, giây giây lại dừng"

Sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ

có sự đổi mới đối với cảm xúc của người đọc. Câu thơ

làm cho người đọc không rơi vào cái tiết tấu qúa đều đặn

qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên mòn, chán.


Sự tiếp nối của 12 dòng thơ nằm trong mạch cấu trúc của

hoài niệm như một sự xuất hiện tất yếu, bởi sau những

băn khoăn của VBắc đvới tcảm của người về xi là tiếng

hát đầy nghĩa tình của kẻ đi, là sự khẳng định niềm thuỷ

chung của cách mạng đối với VBắc. Tiếng hát ấy đã làm

cảm động người ở lại khiến bao nhiêu kniệm, bao nhiêu

hồi ức đầy nghĩa tình đã trào dâng mạnh mẽ trong tâm trí


người tiễn đưa. 12 dòng thơ tiếp nối nhau tạo thành một

dòng chảy của những kniệm cuồn cuộn, nồng nàn, tha

thiết. Mỗi cặp 6-8 lại khơi gợi một kỷ niệm về những tháng


ngày sâu nặng nghĩa tình của VBắc. Và những câu 6 tiếp

nối nhau đều là những câu hỏi như một sự khơi gợi nỗi

nhớ đối với người về xuôi. Mỗi câu 6 lại hướng tới "mình",

những chữ "mình" tiếp nối nhau như một điệp khúc của

tcảm. Và đặc biệt ở những câu 6, chữ "mình" tha thiết bao

giờ cũng gắn với chữ "đi" đầy nhớ thương (ở đây về cũng

là đi, đi cũng là về). Chữ "mình", chữ "đi" bao giờ cũng

kèm với chữ "nhớ", mới thấy người ở lại lưu luyến kẻ về

xi biết bao

"Mình đi có nhớ những ngày - Mình đi mình có nhớ mình"


Sử dụng chữ "mình", một đại từ xưng hơ tiềm ẩn bao


tcảm thân thương, THữu cũng cho thấy cái biến hố linh

hoạt trong cách nói năng, trong sự cảm nhận sắc thái ý

nghĩa của từ này. ở đây "mình" là mình nhưng cũng lại là

"ta". Mình và ta tuy 2 mà 1. Cho nên người ở lại mới nói

với người về xi:

"Mình đi mình có nhớ mình"

Đây là đoạn thơ khơi gợi những kniệm của một thời


cmạng để dựng nên cộng hồ, vì thế mỗi câu 8 trong cặp

lục bát là mỗi câu nhắc nhở một kniệm không bao giờ

quên, như kỷ niệm về những ngày gian khổ xây dựng

phong trào trong hình ảnh "mưa buồn suối lũ những mây

cùng mù", về những ngày "miếng cơm chấm muối, mối

thù nặng vai", về những ngày náo nức trong phong trào

kháng Nhật của thuở còn Việt Minh và những ngày tưng

bừng chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám nơi "mái đình


Hồng Thái, cây đa Tân Trào". Song cái đặc sắc trong câu

8 này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ thuật

đối. THữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để


qua tất cả các câu 8 ở đây, nghệ thuật đối làm cho nhạc

điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn

tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kniệm.

Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như: "Miếng cơm

chấm muối /mối thù nặng vai" để làm nổi bật sự đồng tâm

nhất trí giữa nhân dân và cmạng. Khó khăn lại càng làm

chồng chất mối thù đối với thực dân phát xít. Đó cũng là

sự tương phản giữa csống gian khổ và lòng người qua

những hình ảnh đối chọi nhau


"Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son"

Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của VBắc đvới


cuộc chia tay

"Trám bùi để rụng, măng mai để già"

Nghthuật đối vốn rất quen thuộc trong ca dao, tục ngữ,

nhưng với THữu, nghệ thuật đối đã có những stạo. ở đây

khơng chỉ có sự tương phản mà cịn có sự bổ sung của

các vế đối. ở đây có lối đối giữa các vế trong một câu


×