Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Đề tài “Bảo Hiểm Xã Hội Hà Tây – Thực Trạng và Giải Pháp” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.15 KB, 49 trang )

Đề tài
“Bảo Hiểm Xã Hội Hà Tây – Thực
Trạng và Giải Pháp”
1
1
Mục lục
Lời nói đầu
I. Lý luận chung về BHXH
1. Sự cần thiết của BHXH
2. Khái niệm, nội dung và tính chất của BHXH
3. Vai trò của BHXH
4. Quá trình hình thành và phát triển BHXH
II. Thực trạng của BHXH Hà Tây trong những năm gần đây
1. Giới thiệu chung về BHXH Hà Tây
1.1 Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Hà Tây
1.2 Giới thiệu khái quát về BHXH Hà Tây
2. Thực trạng của BHXH Hà Tây trong những năm gần đây
2.1 Công tác thu BHXH
2.2 Công tác chi trả BHXH
2.3 Công tác chếđộ chính sách
2.4 Công tác kiểm tra
2.5 Công tác tuyên truyền
III. Một số giải pháp và kiến nghịđối với BHXH Hà Tây
1. Định phát triển của BHXH Hà Tây trong những năm tới
2. Các giải pháp
2.1 Công tác thu BHXH
2.2 Công tác chi trả BHXH
2.3 Công tác chếđộ chính sách
2.4 Công tác kiểm tra
2.5 Công tác tuyên truyền
Kết luận


Tài liệu tham khảo
2
2
LỜIMỞĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) chiếm một vị trí quan trọng nhất và là
thành phần chính của hệ thống bảo trợ xã hội ở các nước trên thế giới.
Nhiều nước hiện nay, các nguồn thu vềđóng góp BHXH chiếm đến 10%
GDP và chi cho các chếđộ BHXH chiếm tỷ trọng đến 60-70% tổng chi tiêu
cho các hoạt động bảo đảm xã hội của toàn quốc gia.
Ở Việc nam, bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định
chính trị, trật tự xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ
quốc. BHXH đãđược Nhà nước quan tâm ngay từ ngày đầu thành lập
vàđược thể chế hoá bằng các sắc lệnh của Chính Phủ. Chính sách này đã
giúp cho đội ngũ công nhân viên chức và những người làm việc trong lực
lượng vũ trang yên tâm, hăng say công tác, góp phần không nhỏ vào việc
đấu tranh thống nhất nước nhà.
Ngày nay, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị
trường, quỹ BHXH ở Việt Nam đãđược thành lập một cách độc lập với
ngân sách Nhà nước và triển vọng trở thành nguồn chủ yếu trong việc đảm
bảo các nhu cầu chi của BHXH trong tương lai.
Tuy nhiên, qua các phương tiện thông tin đại chúng và tiếp xúc trực
tiếp với một sốđối tượng tôi nhận thấy rằng bên cạnh những thành tựu cần
phát huy, các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn
chưa tự nguyện đóng BHXH cho người lao động. Một số anh, chị mới ra
trường 1-2 năm còn cho tôi biết việc được các doanh nghiệp Tư nhân và
TNHH của Việt Nam đóng BHXH ngay sau khi vừamới tốt nghiệp Đại học
ra trường vào làm làđiều “vượt ngoài tầm kiểm soát”. Thông thường phải
3
3

sau khi ra trường 3-4 năm vào làm việc ở những công ty lớn thì mới được
doanh nghiệp đóđóng BHXH cho. Bên cạnh đó, những người đã tham gia
đóng BHXH lại phàn nàn về các thủ tục rườm rà và thời gian thường phải
đợi đểđược hưởng chếđộ BHXH nhưđã quy định.
Với mong muốn tìm hiểu rõ thực trạng và nguyên nhân của vấn đề
từđóđưa ra một số giải pháp cho ngành BHXH nói chung và cho BHXH Hà
Tây nói riêng, nơi tôi được may mắn tham gia thực tập, tôi đã quyết định
chọn đề tài:
“BHXH Hà Tây – Thực Trạng và Giải Pháp” làđề tài thực hiện
luận văn tốt nghiệp, với mong muốn sẽđóng góp được một phần nhỏ bé vào
việc thực hiện tốt công tác BHXH tại tỉnh nhà.
Tôi rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp và góp ý của thầy cô
và bè bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
4
4
I. LÝLUẬNCHUNGVỀ BHXH
1. Sự cần thiết của BHXH
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong quá trình lao động,
người lao động gặp phải những rủi ro, biến cố dẫn đến việc bị giảm hoặc
mất sức lao động, hoặc mất nguồn thu nhập do đau ốm, thai sản, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động hoặc chết. Điều này cóảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ và gia đình họ. Để bảo vệ người lao
động, xã hội cần có những biện pháp khác nhau nhằm tạo ra khoản thu
nhập thay thế, bùđắp cho phần thu nhập bị giảm sút. Muốn tồn tại, con
người phải tìm ra và thực tếđã tìm ra nhiều cách bảo vệ mình. Như vậy,
BHXH ra đời là một sự cần thiết khách quan để bảo đảm đời sống cho
người lao động và gia đình họ.
“ Trẻ cậy cha, già cậy con” đó là truyền thống bảo vệ lẫn nhau giữa
các thế hệ trong một gia đình. Nhưng về mặt xã hội, nếu chúng ta quan
niệm gia đình là một tế bào của xã hội, thì việc bảo vệ của xã hội đối với

mỗi gia đình là rất quan trọng và cần thiết. Vì vậy, con người làm việc
không chỉ cho riêng mình, mà là còn cho cả xã hội, nên xã hội cũng phải có
trách nhiệm chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần cho họ. Do yêu cầu
của cuộc sống đã dẫn đến những hành động tập thể phát huy truyền thống
tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau. ý thức cộng đồng đó xuất hiện đã
tạo nên BHXH.
2. Khái niệm, nội dung và tính chất của BHXH
2.1 Khái niệm BHXH
Qua việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của BHXH, ta thấy
BHXH chính là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá có quan hệ thuê mướn
lao động phát triển tới một mức độ nhất định. Trong xã hội, người lao động
có nhu cầu được bảo đảm an toàn vềđời sống, được bảo đảm trong các
trường hợp rủi ro dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập. ngoài ra, còn những rủi
ro khác nhưốm đau, tai nạn lao động, tuổi già
5
5
Vậy BHXH là một loại chếđộ pháp định bảo vệ người lao động, sử
dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động
vàđược sự bảo hộ tài trợ của nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người lao
động và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường
do ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp hết
tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc chết.
Đặc trưng chủ yếu của BHXH là: “ những trường hợp được bảo hiểm
gắn liền với quá trình lao động”, bao gồm những rủi ro trong quá trình lao
động và những trường hợp diễn ra sau quá trình. Song cùng với sự phát
triển của xã hội và bảo hiểm ngày càng trở nên phong phú vàđa dạng. Bên
cạnh BHXH còn có nhiều loại hình bảo hiểm khác như bảo hiểm dân sự
(còn gọi là bảo hiểm thương mại).
Có rất nhiều tranh luận khác nhau để tiến tới có khái niệm thống nhất
về BHXH như sau:

Dưới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp là
sựđảm bảo thu nhập, đảm bảo cuộc sống cho người lao động hoặc bị giảm
hoặc bị mất khả năng lao động.
Ở nước ta, điều 140 của Bộ Luật lao động ghi nhận “Nhà nước quy
định chính sách về BHXH nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo
đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình
trong các trường hợp người lao động bịđau ốm, thai sản, hết tuổi lao động,
chết, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm gặp rủi ro hoặc
khó khăn khác”.
Chếđộ BHXH là tổng hợp những quy định của Nhà nước, quy định
các hình thức bảo đảm những điều kiện về vật chất và tinh thần cho người
lao động và thành viên trong gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc
mất nguồn thu nhập. Nhà nước ta coi BHXH là một chính sách quan trọng
trong quá trình phát triển xã hội.
2.2 Nội dung của BHXH
6
6
BHXH là một chính sách lớn và rất quan trọng, mang bản chất nhân
văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành, hạnh phúc của mọi người nói chung và
người lao động nói riêng. Tuy nhiên để hiểu sâu hơn về BHXH chúng ta
không thể không nghiên cứu đến nội dung của nó.
Để thực hiện BHXH, các nước khi xây dựng chính sách của mình,
đều được xác định rõ các bên trong quan hệ BHXH là những ai để từđó mà
có các bên. Đó là sự ràng buộc chặt chẽ về trách nhiệm đóng góp BHXH
cho người lao động và quyền được hưởng các trợ cấp về BHXH của người
lao động mối quan hệ này được phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động xã
hội.
Người thực hiện bảo hiểm là người đại diện cho cơ quan BHXH do
Nhà nước thành lập, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về công tác thu,
quản lý quỹ và chi trả BHXH.

Người tham gia BHXH là người đóng góp phí BHXH vào quỹ bảo
hiểm để bảo hiểm cho mình hoặc cho người khác được BHXH.
Người được BHXH là người lao động hoặc thành viên gia đình khi
thoả mãn đầy đủ các điều kiện BHXH theo quy định của pháp luật.
• Mức thu nhập được bảo hiểm:
Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc một mức thu
nhập bằng tiền nào đó do Nhà nước quy định. Tuy nhiên, không phải tất cả
thu nhập của người lao động đều được bảo hiểm. Mức thu nhập được bảo
hiểm phải ổn định hoặc tương đối ổn định và Nhà nước cũng như cơ quan
BHXH phải tính toán, kiểm soát được. Tuỳ vào quan niệm BHXH, điều
kiện kinh tế và trình độ quản lý mà mỗi nước lựa chọn mức thu nhập để
BHXH không hoàn toàn giống nhau.
• Điều kiện đểđược hưởng BHXH:
BHXH là sự phân phối lại thu nhập cho người lao động của đơn vị
sử dụng lao động khi họ gặp phải rủi ro, dẫn tới làm giảm hoặc mất thu
nhập, nên việc chi trả BHXH cũng phải dựa trên cơ sở phân phối theo lao
7
7
động. Đảm bảo sự công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ, mức đóng góp
của mỗi người là khác nhau, nên BHXH xây dựng một hệ thống các điều
kiện hưởng trợ cấp hợp lý, phù hợp với mức đóng góp, thời gian làm việc
đó là dựa vào các điều kiện về:
- Tuổi đời.
- Thời gian đóng BHXH.
- Mức độ suy giảm mất khả năng lao động.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định điều kiện nào đóng vai trò
chủ yếu quyết định, xác định hình thức trợ cấp hàng tháng hay trợ cấp một
lần.
• Quỹ bảo hiểm xã hội:
Quỹ BHXH là tập hợp những phương tiện nhằm thoả mãn những

nhu cầu phát sinh về BHXH.
Cụ thể là các khoản dự trữ về tài chính và các phương tiện, cơ sở vật
chất phục vụ cho quỹ BHXH.
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chếđộ tài chính của Nhà
nước, hạch toán độc lập vàđược Nhà nước bảo hộ.
• Các tính chất đặc trưng của quỹ BHXH bao gồm:
- Quỹ BHXH là một quỹ an toàn về tài chính.
- Quỹ BHXH là một quỹ tích luỹ và tiêu dùng.
2.3. Các chếđộ bảo hiểm xã hội:
2.3.1.Các chếđộ BHXH trên thế giới:
Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH
được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định
cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi họ tham gia BHXH gặp rủi ro.
Thực chất là trợ cấp cho 9 chếđộ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước
102 tháng 6/1952 tại Giơnevơ.
8
8
1. Chăm sóc y tế.
2. Trợ cấp ốm đau.
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế.
9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
9 chếđộ trên hình thành một hệ thống các chếđộ BHXH. Tuy điều
kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia Công ước Giơnevơ thực hiện
khuyến nghịđóở mức độ khác nhau. Nhưng ít nhất phải thực hiện được 3
chếđộ trong đó:

Ít nhất phải có một trong năm chếđộ (3); (4); (5); (8); (9). Mỗi chếđộ
trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế - xã hội,
tài chính thu nhập, tiền lương Đồng thời, tuỳ từng chếđộ khi xây dựng
còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân của quốc gia, nhu
cầu dinh dưỡng, xác suất tử vong.
2.3.2. Các chếđộ BHXH ở Việt Nam:
BHXH Việt Nam hiện nay bao gồm 5 chếđộ:
1. Chếđộ trợ cấp ốm đau:
Chếđộ này đã giúp cho người lao động cóđược khoản trợ cấp thay
thế thu nhập bị mất sức do không làm việc khi bịốm đau. Người lao động
bịốm đau có xác nhận của y tế phải nghỉ việc được hưởng trợ cấp ốm đau
thay tiền lương được quy định như sau:
a/ Thời gian được hưởng trợ cấp ốm đau trong 1năm:
* Người lao động thuộc ngành nghề bình thường:
9
9
- 30 ngày hưởng trợ cấp, nếu đóng góp BHXH dưới 15 năm
- 40 ngày hưởng trợ cấp, nếu đóng góp BHXH từ 15 đến dưới 30
năm.
- 50 ngày hưởng trợ cấp, nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên.
* Người lao động thuộc ngành nghề nặng nhọc, độc hại:
- 40 ngày hưởng trợ cấp, nếu đãđóng BHXH dưới 15 năm
- 50 ngày hưởng trợ cấp, nếu đãđóng BHXH từ 15 năm đến dưới
30 năm.
- 60 ngày hưởng trợ cấp, nếu đãđóng BHXH từ 30 năm trở lên.
- 180 ngày hưởng trợ cấp đối với người lao động bị bệnh nặng phải
điều trị dài ngày tại bệnh viện (danh mục các bệnh viện do Bộ y tế quy
định).
b/ Mức trợ cấp ốm đau trả thay tiền lương bằng 75% mức tiền lương.
Lao động nữ có con thứ nhất, thứ hai, nếu con bịốm đau có xác nhận

của y tế phải nghỉ việc thìđược hưởng trợ cấp thay tiền lương như sau:
* Thời gian được hưởng trợ cấp khi con ốm đau trong 1 năm:
- 20 ngày đối với con dưới 36 tháng tuổi
- 15 ngày đối với con từ 36 tháng tuổi đến 72 tháng tuổi.
* Mức trợ cấp trả thay tiền lương bằng 75% mức tiền lương.
Trường hợp đặc biệt người bố phải nghỉ việc để chăm sóc con ốm
đau thì cũng được hưởng trợ cấp nhưđối với người mẹ.
2. Chếđộ trợ cấp thai sản:
Lao động nữ có thai sinh con thứ nhất, thứ hai được hưởng chếđộ
thai sản thay tiền lương như sau:
* Thời gian hưởng trợ cấp thai sản.
10
10
- Được nghỉ việc đi khám thai 3 lần, mỗi lần 1 ngày, trường hợp đặc
biệt được nghỉ 2 ngày.
- Sẩy thai được nghỉ việc 20 ngày, nếu thai dưới 3 tháng, 30 ngày
nếu thai từ 3 tháng trở lên.
- Trước và sau khi sinh được nghỉ 120 ngày đối với người làm việc
trong điều kiện bình thường, 150 ngày đối với người làm việc nặng nhọc
độc hại, 180 ngày đối với người làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số
1,0.
Nếu một lần sinh nhiều con thì tính từ con thứ hai trởđi, mỗi con
người mẹđược nghỉ thêm 30 ngày.
Hết thời hạn nghỉ sinh con theo quy định, nếu có nhu cầu thì có thể
nghỉ thêm và phải có sựđồng ý của người sử dụng lao động. Trong thời
gian nghỉ thêm không được hưởng trở cấp thai sản.
• Mức trợ cấp thai sản bằng 100% mức tiền lương.
• Ngoài ra khi sinh con còn được trợ cấp thêm 1 tháng tiền lương
đóng BHXH.
3. Chếđộ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp:

Người lao động bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được hưởng
trợ cấp BHXH bằng 100% tiền lương trong thời gian điều trị. Trợ cấp và
chi phí khám, chữa bệnh do người sử dụng lao động trả.
Bị suy giảm từ 5% đến 30% khả năng lao động được trợ cấp 1 lần
theo quy định dưới đây.
Mức suy giảm khả năng lao động Mức trợ cấp 1 lần
Từ 5% đến 10%
Từ 11% đến 20%
Từ 21% đến 30%
4 tháng tiền lương tối thiểu
8 tháng tiền lương tối thiểu
12 tháng tiền lương tối thiểu
11
11
Bị suy giảm từ 31% khả năng lao động trở lên được hưởng trợ cấp
hàng tháng kể từ ngày ra viện theo quy định dưới đây.
Mức suy giảm khả năng lao động Mức trợ cấp hàng tháng
Từ 31% đến 40%
Từ 41% đến 50%
Từ 51% đến 60%
Từ 61% đến 70%
Từ 71% đến 80%
Từ 81% đến 90%
Từ 91% đến 100%
0,4 tháng tiền lương tối thiểu
0,6 tháng tiền lương tối thiểu
0,8 tháng tiền lương tối thiểu
1,0 tháng tiền lương tối thiểu
1,2 tháng tiền lương tối thiểu
1,4 tháng tiền lương tối thiểu

1,6 tháng tiền lương tối thiểu
Người lao động hưởng trợ cấp lao động hàng tháng, nếu nghỉ việc
thìđược bảo hiểm y tế do quỹ BHXH trả.
Người lao động bị tai nạn lao động bị suy giảm khả năng lao động từ
81% trở lên mà bị liệt cột sống, mù hai mắt, cụt hai chân, tâm thần nặng
hàng tháng được phụ cấp phục vụ bằng 80% mức tiền lương tối thiểu.
Người lao động bị tai nạn lao động làm tổn thương các chức năng
hoạt động của chân, tay, mặt, răng, cột sống được trang cấp phương tiện
trợ giúp sinh hoạt phù hợp với các tổn thương chức năng.
Người bị tai nạn lao động được hưởng trợ cấp 1 lần hoặc hàng tháng,
khi vết thương tái phát được cơ quan BHXH giới thiệu đi giám định lại
mức độ suy giảm khả năng lao động do thương tật.
Người lao động bị chết khi tai nạn lao động (kể cả chết trong thời
gian điều trị lần đầu) thì gia đình được trợ cấp 1 lần bằng 24 tháng tiền
lương tối thiểu vàđược hưởng chếđộ tử tuất.
4. Chếđộ trợ cấp hưu trí:
a/ Người lao động được hưởng chếđộ hưu trí hàng tháng khi nghỉ
việc mà có một trong các điều kiện sau đây:
12
12
+ Nam đủ 60 tuổi, nữđủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20
năm trở lên.
+ Nam đủ 55 tuổi, nữđủ 50 tuổi và cóđủ 20 năm đóng BHXH trở
lên mà trong 20 năm đó có thời gian làm việc thuộc một trong các trường
hợp sau:
- Đủ 15 năm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại.
- Đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở
lên.
- Đủ 10 năm công tác ở miền Nam, ở Lào trước ngày 30/4/1975
hoặc ở Campuchia trước ngày 31/8/1989.

b/ Người lao động được hưởng chếđộ hưu trí hàng tháng với mức
lương hưu thấp hơn chếđộ hưu trí quy định tại điều 25 Điều lệ BHXH khi
có 1 trong các điều kiện sau đây:
Nam đủ 60 tuổi, nữđủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 15
năm đến dưới 20 năm.
Nam đủ 50 tuổi, nữđủ 45 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20
năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Người lao động cóít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc,
đặc biệt độc hại đãđóng BHXH đủ 20 năm trở lên bị suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên (không phụ thuộc vào tuổi đời).
c/ Người lao động hưởng chếđộ hưu trí hàng tháng được hưởng
quyền lợi sau đây:
Lương hưu hàng tháng tính theo số năm đóng BHXH đủ 15 năm tính
bằng 45% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứđóng BHXH,
sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH tính thêm 2%. Mức lương hưu hàng
tháng tối đa bằng 75% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứđóng
BHXH.
Mức lương hưu thấp nhất cũng bằng mức tiền lương tối thiểu.
13
13
Ngoài lương hưu hàng tháng, đối với người lao động có thời gian
đóng BHXH trên 30 năm nghỉ hưu được trợ cấp một lần tính theo cách tính
như sau:
Từ năm thứ 31 trở lên mỗi năm (12 tháng) đóng BHXH được nhận
bằng một nửa tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứđóng
BHXH, nhưng tối đa không quá 5 tháng.
Người lao động hưởng lương hưu hàng tháng khi chết gia đình được
hưởng chếđộ tử tuất.
d/ Người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi đời để hưởng chếđộ
hưu trí hàng tháng được hưởng trợ cấp một lần, cứ mỗi năm đóng BHXH

được tính bằng 1 tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn
cứđóng BHXH hoặc có thể chờđến khi đủ tuổi đời thìđược hưởng chếđộ
hưu trí hàng tháng.
5. Chếđộ tử tuất:
a/ Người lao động đang làm việc, người lao động nghỉ việc chờ giải
quyết chếđộ hưu trí, người lao động đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hàng tháng, khi chết thì người lo mai
táng được nhận tiền mai táng bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu.
b/ Người lao động đã có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm trở lên,
người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chếđộ hưu trí hàng tháng, người
đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
hàng tháng, người lao động đang làm việc mà chết thì thân nhân do họ trực
tiếp nuôi dưỡng sau đây được hưởng tiền tuất hàng tháng.
Con chưa đủ 15 tuổi (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài
giá thúđược pháp luật công nhận, con đẻ mà khi người chồng chết người
vợđang mang thai). Nếu con còn đi học thìđược hưởng tiền tuất hàng tháng
đến khi đủ 18 tuổi.
c/ Mức tiền tuất hàng tháng đối với mỗi thân nhân được quy định
bằng 40% mức tiền lương tối thiểu. Trong trường hợp thân nhân không có
14
14
nguồn thu nhập nào khác và không còn người thân trực tiếp nuôi dưỡng thì
mức tiền tuất hàng tháng bằng 70% mức tiền lương tối thiểu. Số thân nhân
được hưởng tiền tuất hàng tháng không quá 4 người vàđược hưởng kể từ
ngày người lao động chết.
d/ Người lao động đang làm việc, người lao động nghỉ việc chờ giải
quyết chếđộ hưu trí, người lao động đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hàng tháng, người lao động đang làm
việc bị tai nạn lao động nghề nghiệp chết mà không có thân nhân thuộc
diện hưởng tiền tuất hàng tháng thì gia đình được nhận tiền tuất 1 lần.

2.4 Tính chất của BHXH
BHXH vừa mang tính kinh tế, tính xã hội nhân văn, vừa mang tính
dịch vụ.
2.4.1. Tính kinh tế của BHXH:
Người lao động đóng phí BHXH phần đóng góp này là khoản tiền
mà người lao động phải đóng góp hàng tháng đểđược hưởng trợ cấp khi
gặp phải rủi ro hoặc sự cố theo các chếđộ bảo hiểm. Đây là mục đích kinh
tế của người lao động, khoản được trợ cấp thường xấp xỉ với giá trị của
khoản đãđóng BHXH, thậm chí còn có thể cao hơn như trường hợp sống
lâu. Rủi ro đểđược hưởng trợ cấp thường là: tuổi già, chết, tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản. Ở Việt Nam, Nghịđịnh 12/CCP
ngày 26/1/1995 đã quy định người lao động đóng BHXH hàng tháng bằng
5% tiền lương.
BHXH cũng phục vụ lợi ích của người sử dụng lao động vì góp
phần duy trìổn định lao động trong xã hội. Người sử dụng lao động trả
lương cho người lao động và cả khi họ không còn đủ khả năng làm việc
đểđược hưởng lương.
Người lao động được bảo hiểm sẽ yên tâm phấn khởi làm việc, nâng
cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm góp phần giữ vững thậm
chí làm tăng lợi nhuận của người sử dụng lao động. Điều lệ BHXH mới của
15
15
nước ta quy định người sử dụng lao động phải đóng 15% so với tổng quỹ
lương của những người lao động được bảo hiểm trong đơn vị.
Đối với ngân sách Nhà nước, BHXH góp phần làm giảm "gánh
nặng" cho ngân sách Nhà nước. Hàng năm ngân sách Nhà nước phải bỏ ra
khoảng 4.500 tỷđồng để trả lương cho hưu trí và mất sức. Khi có chếđộ
BHXH mới, hàng năm thu được của người lao động khoảng 1.800 tỷ.
Khoản chi của ngân sách Nhà nước cho trợ cấp hưu trí, mất sức nhờđó
giảm được một phần.

Đồng thời, phần "nhàn rỗi" của quỹ BHXH kết hợp với phần tiết
kiệm cho ngân sách Nhà nước tạo thành nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Đối với những nước có dân số trẻ, nguồn thu BHXH là một nguồn tiết kiệm
nội bộ rất quan trọng vì các khoản chi trợ cấp, trước hết là chi trợ cấp tuổi
giàít dùng đến ngay.
Nguồn thu được tích tụ dài ngày, có nhiều tiền nhàn rỗi. Pháp luật
của hầu hết các nước đều cho phép sử dụng tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH
đểđầu tư sinh lợi, tăng trưởng quỹ. Tuy nhiên nguyên tắc đầu tư là phải
đảm bảo, bảo tồn và phát triển vốn, thanh toán được chắc chắn như mọi
hạng mục đầu tư khác. Vì phải đảm bảo kịp thời, đầy đủ các mức trợ cấp
khi phát sinh trường hợp bảo hiểm, cho nên việc đầu tư của quỹ BHXH
phải được Nhà nước xét duyệt một cách chặt chẽ, phải đầu tư vào các hạng
mục đầu tư của Nhà nước, cóích đối với xã hội và nền kinh tế quốc dân.
Thường là Nhà nước khuyến khích đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng, y
tế, giáo dục, cơ sở sử dụng nhiều lao động, mở ra nhiều việc làm mới.
2.4.2. Tính xã hội:
Tính xã hội của BHXH thể hiện ở việc những người trong tuổi lao
động, có khả năng và nhu cầu về việc làm đều có quyền tham gia và hưởng
BHXH. Việc người lao động đóng BHXH có tầm quan trọng về tâm lý, nó
nhắc nhởý thức trách nhiệm và bảo vệ nhân phẩm của người lao động, xác
lập quyền của người lao động được hưởng trợ cấp BHXH.
16
16
Người sử dụng lao động cũng như Nhà nước phải có trách nhiệm
BHXH cho người lao động qua việc đóng góp vào quỹ BHXH. Sựđóng góp
này chính là nhằm san sẻ bớt gánh nặng cho người lao động, nhân danh
tình đoàn kết xã hội.
2.4.3. Tính dịch vụ:
BHXH được thành lập với mục đích thoả mãn nhu cầu được tham
gia và hưởng trợ cấp của người lao động trong xã hội. Xã hội càng phát

triển thì nhu cầu tham gia BHXH càng tăng và hoạt động BHXH ngày càng
hoàn thiện hơn.
Hiện nay, BHXH mới chỉđáp ứng một phần nhỏ nhu cầu của lực
lượng lao động. Đa sốđông người lao động là lao động, nông nghiệp, tự tạo
việc làm Những người này cũng cần sự bảo vệ của hệ thống BHXH xã
hội.Vì vậy việc mở rộng phạm vi BHXH là hết sức cần thiết để BHXH
thực sựđáp ứng được nhu cầu của tất cả người lao động.
3. Vai trò của BHXH đối với người lao động vàđối với xã hội
3.1 Đối với người lao động
Trong cuộc sống hàng ngày có những loại rủi ro nhưốm đau, tai nạn
lao động bệnh nghề nghiệp, thai sản, già yếu rồi chết … Tất cả những rủi ro
này đều có thể xảy đến đối với bất cứ người lao động nào, tại bất cứ thời
điểm nào trong cuộc sống hàng ngày của con người. Nhất là trong giai đoạn
ngày nay, khi màđất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá thì những “rủi ro” này lại càng diễn ra một cách thường
xuyên và có tính chất ngày càng phổ biến hơn vì sự biến động về thị trường
lao động và sản xuất kinh doanh đa dạng hơn, phức tạp hơn.
Khi những rủi ro này xảy ra đối với những người lao động thì sẽ gây
ra cho họ những khó khăn vả về vật chất lẫn tinh thần, gây ra mất hoặc làm
giảm thu nhập từđó gây ra những ảnh hưởng không tốt không chỉ cho chính
anh ta, gia đình anh ta mà còn cho cả cộng đồng xã hội loài người.
17
17
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế – xã hội của Nhà
nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp
rủi ro, bất hạnh để họ khắc phục những khó khăn bằng cách tạo ra cho họ
những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi … giúp họổn
định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai
từđó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất
lượng công việc cho xí nghiệp, cơ quan họđang làm nói riêng và cho toàn

bộ xã hội nói chung.
3.2 Đối với xã hội
Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt
động dịch vụ, BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ
“bảo hiểm” cho người lao động, một loại hình dịch vụ bất cứ ai cũng cần
đến (không phải chỉ cán bộ công nhân viên chức mới cần). Nếu các doanh
nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại dịch vụ bảo hiểm (đáp ứng đa dạng
nhu cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được tính trực
tiếp vào tổng sản phẩm xã hội
Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế – xã hội
của Nhà nước, BHXH sẽ “bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động
BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với những người
lao động, góp phần tích cực của mình vào việc khôi phục năng lực làm
việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực
tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp của người
lao động khi gặp rủi ro bằng cách tạo ta thu nhập thay thế thì BHXH đã
gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng Quốc gia làm tăng sự tiêu dùng
cho xã hội.
Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ, BHXH tác động mạnh mẽ tới
hệ thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân
hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn và
18
18
phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có hình thức đầu tư
phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ.
Phần này có tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế của
đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm
mới, góp phần quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao
động, từđó góp phần giảI quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, góp
phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản

phẩm quốc nội cũng như tổng sản phẩm quốc dân nói chung.
Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là
công cụ phân phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách: phân phối
lại theo chiều ngang giữa người khoẻ và người già, người đang làm việc và
người đã nghỉ hưu, người trẻ tuổi và người lớn tuổi, giữa nam và nữ, người
đang hưởng trợ cấp và người chưa hưởng trợ cấp; phân phối lại theo chiều
dọc là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa người có thu
nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối
bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho người nghèo một
cách võđoán. ý tưởng của BHXH là nhiễu điều phủ lấy giá gương, làđoàn
kết giữa các nhóm, các giới hạn trong cùng cộng đồng với nhau mà vốn là
tiềm lực của dân tộc ta đãđược lịch sử chứng minh.
4. Quá trình hình thành và phát triển BHXH.
4.1. Sự hình thành và phát triển BHXH trên thế giới.
Ngay từ thời xa xưa, thời cổđại con người đã biết vừa tự lực vừa biết
kết hợp đoàn thểđểđi săn bắn, lao động để kiếm sống, vật lộn với thiên
nhiên. Khi gặp rủi ro tai biến họ vừa tự mình chịu đựng, khắc phục vừa
được các thành viên trong cộng đồng hỗ trợ cưu mang. Ở thời đó sự tương
trợ mang tính tự phát, theo bản năng và mới được thực hiện trong phạm vi
nhỏ (trong cộng đồng, bộ tộc, bộ lạc).
Đến giai đoạn có sự phân công lao động sản xuất xã hội phát triển,
quan hệ xã hội càng trở nên phức tạp, quan hệ tác động giữa các cá nhân,
19
19
giữa các cộng đồng cũng trở nên đa dạng hơn. Tôn giáo xuất hiện, các
thánh địa, hội nhà chùa, hội nhà thờ, trại bảo dưỡng được thiết lập, trong đó
có mục đích từ thiện, trợ giúp tín đồ, các con chiên gặp khó khăn, nghịch
cảnh, mà trước hết là người nghèo, trẻ mồ côi. Đối với bản thân mình cha
ông ta đã tự chủ là "tích thóc đề phòng thiếu thốn, trữáo bông khi giá lạnh".
Trong quan hệ xã hội nhiều tổ chức hoạt động nhân ái mang tính chất tự

nguyện tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc gặp rủi ro, tai biến
được hình thành một cách tự phát và ngày càng phát triển. Chính những
hoạt động này đã thức tỉnh tính bản thiện trong các nhà cầm quyền và hơn
thế nữa cũng là lợi ích của chính giai cấp mình làđể ngăn chặn những rối
loạn xã hội có thể nảy sinh do cuộc sống của con người lao động bị lâm
vào cảnh khốn cùng, làm lung lay địa vị thống trị của mình, không ít vua
quan đã tham gia hoạt động từ thiện trích công quỹđể tế bần, phát trần cho
những người túng đói.
Khi ngành công nghiệp hình thành, hàng loạt dân nông thôn di cư từ
nông thôn ra thành thị, Trong khoảng thể kỷ XVI - XVIII một sốđoàn thợ
thủ công ra đời. Tính đoàn kết tương thân giữa những người làm thuê nảy
nở dần. Ở một số Châu Âu, trong thời kỳ này có khá nhiều quỹ tương
trợđược thành lập, ở Anh 1973 có hội "Bằng Hữu" giúp trợ hội viên trong
các trường hợp ốm đau, thương tật.
Đặc biệt, khi giai đoạn công nghiệp phát triển, số công nhân công
nghiệp đông dần. Giai cấp công nhân công nghiệp gồm những thị dân, dân
nông thôn thoát ly nông nghiệp, từ những người sản xuất tự cấp tự túc
thành những người làm công ăn lương, dựa vào lương là nguồn sống chủ
yếu. Có làm việc thì mới có lương để sống dùđồng lương làít hay nhiều.
Nếu ốm đau, thương tật, thai sản phải nghỉ việc mà không có lương nghĩa
là cuộc sống của họ lập tức bịđe doạ.
Đến giai cấp này, những rủi ro, tai biến đe doạ người công nhân
không chỉ là sinh bệnh, tử mà không ai thoát khỏi trong đời thường, những
rủi ro, tai biến còn là tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp. Để
20
20
giảm tối thiểu nỗi âu lo của người làm công ăn lương, nhiều hệ thống trợ
giúp xã hội nối tiếp nhau ra đời, bên cạnh những khoản tiền khiêm tốn của
hội tương tế, còn có những quy định bắt buộc người sử dụng lao động
phải chu cấp cho người thuộc quyền quản lý khi họ bịốm đau, tai nạn lao

động.
Đáng chúý là trong quá trình phát triển, trước cục diện mới, giai cấp
công nhân ngày càng đông đảo, ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội của các
quốc gia. Chính phủ các nước, nhất là các nước công nghiệp, không thể
quan tâm đến tình cảnh của người lao động. Họ buộc phải từng bước cải
thiện điều kiện lao động, rút ngắn thời gian làm việc, có chếđộ thích hợp
hơn để tỏ ra có chăm sóc đến đời sống của người lao động. Điển hình là
năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bis -Mắc, nhiều bang của nước Đức đã
giúp đỡ các địa phương lập quỹ bảo hiểm ốm đau, do các công nhân phải
đóng tiền để bảo hiểm. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc chính là bắt nguồn
từđây và người được bảo hiểm phải đóng bảo hiểm.
Chếđộốm đau được phổ cập trong toàn nước Đức vào năm 1883, do
các hội tương tế lúc bấy giờ của công nhân quản lý. Năm 1884 xuất hiện
các chếđộ bảo hiểm về rủi ro nghề nghiệp do các hiệp hội chủ doanh
nghiệp quản lý. Năm 1889 lại xuất hiện chếđộ bảo hiểm tuổi già và bảo
hiểm tàn tật do chính quyền các tỉnh quản lý.
Trong khoảng từ năm 1883 đến năm 1884, một hệ thống bảo hiểm xã
hội lớn đầu tiên ra đời với sự tham gia bắt buộc của những người làm công
ăn lương, theo nguyên tắc người được hưởng bảo hiểm phải đóng phí bảo
hiểm xã hội và 3 thành viên của của xã hội là: người lao động, người sử
dụng lao động, Nhà nước đều có vị trí trong việc quản lý hệ thống Bảo
hiểm xã hội. Từđó nhiều nước đã sử dụng cơ chế này trong hệ thống các
chếđộ bảo hiểm xã hội của nước mình.
Sáng kiến về bảo hiểm xã hội của chính quyền Bis- Mac được nhiều
nước Châu Âu chấp nhận. Từ thập kỷ 30 của thế kỷ XX liên tiếp các nước
Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canada đều áp dụng; từ sau đại chiến thế giới thứ II
21
21
và sau khi giành được độc lập nhiều nước Châu Phi, Châu Á và vùng
Caribê cũng lần lượt áp dụng cơ chế bảo hiểm xã hội tương tự. Tuy vậy

cần nhấn mạnh rằng các nước áp dụng cơ chế bảo hiểm xã hội chủ yếu làáp
dụng các đặc trưng có sựđóng bảo hiểm xã hội của những người được bảo
hiểm. Còn về chếđộ phụ cấp thì cụ thể mỗi nước tuỳ theo điều kiện kinh tế
xã hội cụ thể và truyền thống riêng của nước mình để thêm bớt, không máy
móc sao chép những chếđộ của nước này, nước khác.
Có thể nói bảo hiểm xã hội được hình thành và phát triển gắn liền
với sự phân công lao động xã hội à sự phát triển của ngành công nghiệp.
Ngành công nghiệp công nhân nhận lương trong các xí nghiệp công nghiệp
sống hoàn toàn dựa vào tiền lương. Khi họ gặp rủi ro trong quá trình lao
động nhưốm đau, tai nạn lao động, thai sản thì ngay lập tức cuộc sống của
họ bịđe doạ. Điều này nếu không được các giới chủ sử dụng lao động quan
tâm sẽ làm cho quan hệ giữa chủ và thợ vốn đãđược căng thẳng và có thể là
nguyên nhân của của các cuộc bãi công biểu tình. Để hài hoà mối quan hệ
này thì việc hình thành bảo hiểm xã hội là tất yếu.
4.2. Quá trình hình thành và phát triển BHXH tại Việt nam:
Việt nam cũng như các nước trên thế giới. Sau khi Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời, tháng 12/1946, Quốc hội đã thông qua hiến pháp đầu tiên
của Nhà nước dân chủ nhân dân. Trong hiến pháp có xác định quyền được
trợ cấp của người tàn tật và người già.
Ngày 12/3/1947, Chủ tịch nước Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29SL
Quy định chếđộ trợ cấp cho công nhân.
Ngày 20/5/1950, Hồ Chủ Tịch ký Sắc lệnh số 76 và 77 quy định thực
hiện chếđộốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ công nhân
viên chức.
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, thực hiện hiến pháp 1959, Hội
đồng Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về chếđộ bảo hiểm xã hội đối
với chếđộ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước kèm
22
22
theo nghịđịnh 218/CP ngày 27/11/1961. Các chếđộ bảo hiểm xã hội gồm

6 loại trợ cấp: ốm đau, thai sản, tử tuất. Đáng chúý làđến lúc này, quỹ bảo
hiểm xã hội được chính thức thành lập là quỹđộc lập thuộc ngân sách; các
cơ quan, doanh nghiệp chỉ nộp bằng một tỉ lệ % so với tổng quỹ lương của
công nhân viên chức, còn công nhân viên chức thì không phải đóng bảo
hiểm xã hội
Điều lệ tạm thời này được thực hiện trong suốt thời gian gần 32 năm.
Trong quá trình này, có một sốđiểm bổ sung sửa đổi, nhưng chỉ là tỷ lệ
nộp của cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, điều kiện và mức hưởng trợ cấp,
cách tính thời gian công tác, tiền lương căn cứ tính trợ cấp, cơ quan quản lý
quỹ BHXH.
Ở giai đoạn này có thêm cơ chế bảo hiểm xã hội đối với khu vực
ngoài quốc doanh. Trong khu vực tiểu thủ công nghiệp, liên hiệp xã, Trung
ương ban hành điều lệ tạm thời về các chếđộ bảo hiểm xã hội đối với xã
viên hợp tác xã và các tổ sản xuất tiểu thủ công nghệp. Về cơ bản, chếđộ
này phỏng theo mô hình bảo hiểm xã hội trong khu vực Nhà nước, đã có
tính đến một sốđặc điểm của ngành tiểu thủ công nghiệp.
Điểm khác quan trọng là nguồn thu dựa trên cơ sở tiền đóng góp của
người lao động nhưng do sản xuất tiểu thủ công nghiệp không ổn định nên
người lao động đóng góp không thường xuyên, quỹ Bảo hiểm xã hội lại
không có sự bảo trợ của Nhà nước. Vì vậy, điều lệ chỉđược thực hiện trong
thời gian ngắn ngủi, đến năm 1989 phải chấm dứt.
Trong khu vực nông nghiệp, tuy chưa có bảo hiểm xã hội chính
thống, nhưng do nhu cầu bảo đảm cuộc sống của người lao động trong khu
vực nông nghiệp, một số nơi đã tự phát lập ra chếđộ bảo hiểm tuổi già
trong phạm vi xã thôn là chính. Quỹ bảo hiểm tuổi giàđược hình thành chủ
yếu bằng số thóc nộp của những người tham gia, trợ cấp tuổi già cũng bằng
thóc. Cho nên đây cũng chỉ là hình thức sơ khai có tính chất bảo hiểm xã
hội, phạm vi và tác dụng còn nhiều hạn chế.
23
23

Kể từĐại hội VII vàĐại hội VIII của Đảng, công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu. Trong các chính sách xã hội thì
việc cải cách, đổi mới chếđộ bảo hiểm xã hội trở thành một vấn đề bức
bách đối với Đảng, Nhà nước và Chính phủ.
Ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành nghịđịnh tạm thời chếđộ
BHXH. Nội dung cải cách trước hết nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp, ỷ lại
trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, mở ra hai loại hình bảo hiểm xã hội đó là:
Bảo hiểm xã hội đối với người được bảo hiểm ; trong loại hình Bảo hiểm
xã hội bắt buộc thì người sử dụng lao động phải đóng phí bảo hiểm nhân
danh những người lao động được sử dụng.
Quỹ Bảo hiểm xã hội được Nhà nước hỗ trợ thêm, quy định tại 5
chếđộ trợ cấp: ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu
trí và tử tuất, xoá bỏ chếđộ trợ cấp mất sức lao động vốn đã biểu hiện nhiều
tiêu cực và bất hợp lý; thống nhất hoá tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội
trong cả nước. Tỷ lệ trích nộp bảo hiểm xã hội, điều kiện hưởng trợ cấp,
tiền lương làm căn cứ và mức hưởng trợ cấp đều được sửa đổi căn bản. Tuy
vậy đối với loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa có những quy định
chi tiết cụ thể.
Trên cơ sở thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội từ trước đến nay nhất
là căn cứ vào những kinh nghiệm thực hiện nghịđịnh 43/CP, cơ chế bảo
hiểm xã hội đãđược chếđịnh lại thành một chương trong Bộ luật lao động
thông qua ngày 23/6/1994 vàđược cụ thể hoáĐiều lệ Bảo hiểm xã hội mới
kèm theo nghịđịnh 12/CP ngày 26/1/1995. Chương BHXH trong Bộ luật
lao động gồm những quy phạm có tính chất nguyên tắc. Điều lệ BHXH mới
được ban hành, căn cứ vào Bộ Luật lao động đã mở ra một trang mới đối
với BHXH ở nước ta trong điều kiện và bối cảnh: nền kinh tế nhiều thành
phần, vận dụng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ quan BHXH Hà Tây là một đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam
được thành lập theo quyết định 13A/TCCB ngày 15/6/1995 của Tổng Giám

24
24
đốc BHXH Việt nam và quyết định số 314/GĐ của UBND tỉnh Hà Tây và
bắt đầu hoạt động từ ngày 1/7/1995.
II. THỰCTRẠNGCỦA BHXH HÀ
TÂYTRONGNHỮNGNĂMGẦNĐÂY.
1. Giới thiệu chung về BHXH Hà Tây.
1.1 Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Hà Tây
1.1.1 Đôi nét về tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động
BHXH Hà Tây.
Hà Tây là một tỉnh đồng bằng với diện tích 214.703 Km
2
. Dân số
trên hai triệu người, gồm 12 huyện và 2 thị xã. (Hà Tây có; một phần nhỏ
diện tích là bán sơn địa có dân tộc ít người sinh sống như dân tộc Mường,
dân tộc Dao)
Địa bàn Hà Tây tiếp giáp phía Tây bắc và Nam thành phố Hà Nội.
Với vị trí như trên Hà Tây trở thành áo giáp bảo vệ cửa ngõ ra vào thủđô
Hà Nội. Mọi diễn biến xã hội ở Hà Nội đều tác động mạnh mẽ, mau lẹ tới
Hà Tây và ngược lại.
Có rất nhiều doanh nghiệp Trung Ương và Liên doanh với nước
ngoài có số lao động khá lớn đóng trên địa bàn tỉnh.
Là một tỉnh có nguồn nhân lực đồi dào, nhiều ngành nghề truyền
thống có nhiều thuận lợi. Song cũng còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
Kinh tế còn chậm phát triển so với tiềm năng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chưa mạnh, nông nghiệp vẫn là chủ yếu, công nghiệp quy mô nhỏ bé, công
nghệ lạc hậu, hạ tầng cơ sở kém, nguồn vốn đầu tư hạn hẹp, trình độ dân trí
thấp và chủ yếu sống ở nông thôn do đó phần lớn lao động làm việc trong
lĩnh vực nông nghiệp, nhiều lao động còn thiếu việc làm nên số lao động
tham gia BHXH còn hạn chế.

1.1.2 Tác động của cơ cấu kinh tếđến BHXH Hà Tây
25
25

×